Thơ, thiền - những đường bay và những chân trời

14:47 11/12/2008
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

Cái đặc thù ở đây là anh đã đào xới những vỉa quặng ngầm, chưa có hoặc ít có người khám phá: cái mặt tĩnh của tư duy, cái lẩn khuất của nội tâm triết học... mà chúng thì thường lặn chìm, vô tăm, khiêm hư trước mọi biến động của thời cuộc. Ít khi mà đọc được một quyển sách hay. Tôi đọc giữa hai hàng chữ và cảm nhận được rằng: Có những con người đã có những chân trời của tự do, của sáng tạọ, của khát vọng sự thật và họ yêu mến cái đẹp đến vô bờ! Tuy thế, tôi lại thích cái tựa sách hơn: “Chân trời có người bay”. Cái tựa này, anh Thúy lại lấy ý từ câu thơ cô đơn, hiu hắt, thấm đẫm chất nhân văn của nhà thơ Trần Dần:
-“Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời”
Và quả thật, đã có thời, có những chân trời không có người bay. Và quả thật, đã có thời, có những người bay không có chân trời.
Nghĩ về thơ, nghĩ về thiền - hốt nhiên, tôi cũng nghĩ đến những đường bay như nhà thơ Trần Dần, như nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy- nhưng là những đường bay không biết có chân trời nào hay không?

I - Đường bay của thơ:
Thơ Việt kể từ thời Lý Trần, nhiều học giả đã xác định là đỉnh cao của văn học hoặc là ngọn đuốc sáng mở đường cho thời đại tự chủ của dân tộc. Tự bản chất, nó là dòng hợp lưu: minh triết đông phương và bản sắc văn hóa Việt. Và suốt trong dòng chảy ấy, trải qua hơn ngàn năm, Phật Khổng Lão và tình tự dân tộc đã hỗn dung và quyện lẫn trong nhau. Và thế là có cái đúng, có cái sai; có cái bình dân hóa, có cái tan hòa với tín ngưỡng dân gian. Thơ ca vào các thời kỳ này, tuy chỉ lập ngôn dị giản như “Văn dĩ tải đạo” hoặc “Thi ngôn kỳ chí”... nhưng chúng đã hướng đến những giá trị phổ quát, đáp ứng được những khát vọng muôn thuở của nhân sinh. Chúng ta không cần dài dòng nói đến những ích dụng đó như thế nào, vì rõ ràng những nền tảng tư tưởng từ hình nhi thượng đến hình nhi hạ của Phật Khổng Lão đã được chiết trung, tinh lọc, biến cải cho phù hợp với bản sắc văn hóa Việt. Và như vậy chứng tỏ gì? Chứng tỏ thơ vào các thời kỳ này có định hướng. Có định hướng tất có đường bay. Các giá trị tại thế, nhân văn, mỹ học- theo đó, chẳng có gì phải bàn luận nhiều, nhất là thi ca.

Mãi cho đến khi tiếp thu nền học thuật của phương Tây thì diện mạo thơ Việt mới bắt đầu đổi khác. Các trường phái lãng mạn, ấn tượng, tượng trưng, siêu thực... như những ngọn gió lạ thổi qua bình nguyên yên ả của tâm linh thơ Việt. Cổ súy cho phong trào thơ mới là Phan Khôi với bài thơ “Tình già”. Sau đó, các thanh niên thi sĩ tân học, với sinh lực trẻ trung lần lượt xung trận như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Trương Tửu... đã trình diện thi đàn những bài thơ đi ra ngoài truyền thống, thoát ly vóc dáng cổ điển.Vì mới thể nghiệm nên không tránh khỏi “Tây quá” hoặc hoa lẫn với rác nhưng lại thích hợp với xu thế tâm hồn lớp trẻ hãnh tiến của thời đại.

Đi theo phong trào cải cách, canh tân này có thể lên đến con số 80 tác giả, trong đó, số nữ lưu anh kiệt như Ngân Giang, Anh Thơ, Mộng Tuyết, Hằng Phương... có chừng trên dưới 10 người.  
Họ kết án thơ cũ với vần, niêm, luật gò bó, chật chội, không thể đáp ứng nổi những tư duy, tâm tình, cảm xúc đa phức trước trào lưu mới. Một phần nào đó họ có lý. Họ có lý nên họ đã thành công. Tuy nhiên, nếu hiện đại chủ nghĩa quá, nghĩa là tượng trưng và siêu thực quá như nhóm “Xuân thu nhã tập” thì thất bại. Phá bỏ vần luật, niêm đối để cho thơ chắp cánh tự do, phiêu bồng bay, thênh thang bay trong không gian nghệ thuật với hình tượng, tu từ mới mẻ thì thơ sẽ tăng trọng cảm xúc, lung linh nhiều vẻ đẹp, ẩn mật, đa tầng và đa nghĩa. Nhưng chủ trương phá bỏ ý thức, phá bỏ cả quy tắc ngữ pháp, phá bỏ những thông tin thường ngữ, thường nghĩa... thì chỉ còn cái vỏ âm thanh khô rỗng, ú ớ, bập bẹ, phều phào... chẳng rõ trao gởi thông tin gì! Sự mã hóa ngôn ngữ ấy như là ẩn số bí hiểm, mà đôi khi chính tác giả cũng quên, không biết mình nói gì! May ra chỉ có Thượng đế mới hiểu. 

Những thi gia kiện tướng như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng... mãi cho đến tận bây giờ, công phu tế bào não của họ vẫn chưa đến được với tâm hồn người đọc, nếu không muốn nói là tạo nên một không gian dị ứng. Như vậy, loại thơ hiện đại chủ nghĩa này có chân trời nào để bay không? Hay là không có chân trời mà vẫn bay? Và đường bay này cũng đã được mã hóa trong cơn mê man bội thực hoặc èo uột, thiếu ăn của các con chữ? Cho nên, đã rất nhiều người phê phán loại thơ này một cách gay gắt, không khoan nhượng tí nào: “Đó chỉ là các chuỗi kết hợp từ gần như vô thức, thể hiện sự lao động thiếu nghiêm túc của người cầm bút. Chẳng những nó là kết quả của sự nghèo nàn về vốn từ ngữ dân tộc ở một số tác giả mà còn là những dấu hiệu của một bệnh trạng tư duy. Đọc những câu thơ ấy, người đọc chỉ thấy đó là một mớ hổ lốn ngôn từ không có giá trị biểu đạt tư tưởng- tức là sự nhận biết và khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng thuộc thế giới xung quanh. Bản chất của hiện tượng thơ này hoàn toàn xa lạ với sáng tạo nghệ thuật đích thực. Nó chỉ tác hại và làm vẩn đục ngôn ngữ, làm méo mó tư duy của người Việt hiện đại mà thôi.”
Không biết nói như thế có hơi quá hay không? Có hơi quy phạm, hàn lâm hoặc mẫu mực quá hay không? Ta hãy chờ xem!

Sau Cách mạng tháng Tám, do hoàn cảnh lịch sử, ở miền Bắc, đa phần các nhà thơ đều phải ra mặt trận bằng cách này hay bằng cách khác, thơ mới vẫn âm thầm tồn tại bên lề dòng văn học chính thống, còn thơ phục vụ chiến đấu thì có định hướng rõ ràng. Các thế hệ chống Pháp và chống Mỹ đã xuất sinh một số lượng lớn các nhà thơ có tên tuổi đã được định hình vững chắc, làm đà cho thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa, bước lên thi đàn một cách tự tin và đầy hào hứng. Vậy là một thời gian không dài lắm, chỉ mới 30 năm (từ 45-75) thơ vẫn có đường bay, bay theo cao trào của lịch sử. Những loại thơ trữ tình, lãng mạn dường như không có môi trường để góp mặt một cách chính quy trên thi đàn.
Cũng vào lúc này, nhất là sau khi chia cắt đất nước, tình trạng thơ ở miền vẫn tiếp tục đi theo phong trào thơ mới, lại có vẻ muốn mới hơn cả thế hệ Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Xuân Diệu... Chính nhóm “Sáng tạo” của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa đã cổ suý cho phong trào nầy.

Tuy nhiên, đấy chỉ là bước đi tiếp theo trên lộ trình có sẵn; dẫu với tuyên ngôn tự do, sáng tạo, hiện đại... họ vẫn ảnh hưởng nặng nề các trường phái lạc hậu của Tây phương đã không còn thời thượng nữa. Sự tìm kiếm của họ là một nỗ lực đáng khen ngợi, nhưng dường như cũng chỉ là sự dò đường, thử nghiệm theo những vết chân đã cũ, sau đó là bị chìm khuất.
Có những nhà thơ độc lập, đàn anh cả nhóm Sáng tạo, họ không đi theo ai, vững vàng trung thành với Nàng Thơ của mình; không nói cũ, không nói mới như Bùi Giáng, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương...; mỗi người mỗi dáng vẻ, mỗi phong cách, một thế giới riêng không lẫn với ai được.

Nói tóm lại, tình trạng thơ ở đây vẫn là cái trăn trở muôn thuở giữa hiện thực nhân sinh trần trụi và những khát vọng bản thể siêu hình. Hoang mang giữa binh lửa, bất an trong lối thoát, thơ như tiếng gọi kêu bỏng cháy trước sa mạc cằn khô và nhức đau của hiện tồn. Như vậy, ta có thể kết luận mà không ngại võ đoán và vội vã, là thơ miền chưa có đường bay rõ ràng hoặc phiêu phất và tản mạn nhiều hướng. Cái gọi là “vị nghệ thuật hay vị nhân sinh”, dầu sao, chỉ còn là chuyện cổ tích của một thời. Ai sao cũng được. Hơi đâu mà xác định cho đường bay của thơ. Ngoại trừ một số thơ lai căng, nô lệ cho thế lực nào đó hoặc thơ tối tăm, hiện sinh và hư vô, trên thi đàn vẫn có nhiều nhà thơ định hình, sáng giá và sống lâu... Cái đẹp vẫn hiện hữu. Thơ vẫn là món ăn tinh thần cao sang của xã hội, không chỉ là sản phẩm độc quyền của nhóm “Trung tâm văn bút” do chính quyền bảo trợ.

Còn hiện nay? Quả thật là khó nói. “Thơ”- trong ngoặc kép - xuất hiện như rác giữa chợ chiều. Nhan nhản thơ. Ngồn ngộn thơ... Dường như có một số nhà thơ trẻ muốn đánh đố độc giả nên đã cố ý bí hiểm, thiếu nghiêm túc và thiếu kiến thức ngữ pháp căn bản khi sử dụng con chữ, coi thường tinh hoa trong sáng của ngôn ngữ Việt. Rất nhiều bài thơ với những vỏ âm thanh lắp ghép, biến tấu rối mù, thông tin ngữ nghĩa được giấu kín... Do biến động của nền kinh tế thị trường và sự giao lưu phồn tạp của các luồng văn hóa- kể cả phi văn hóa- thơ dường như được tiếp thêm nhiên liệu và sức sống bản năng nên nó thay vỏ rất nhanh để bắt kịp với các trào lưu hiện đại. Họ sợ bị tụt hậu. Thế là giữa đống thơ ngổn ngang, rời rạc các con chữ là hình ảnh đứt khúc của cảm xúc, câu cú, ý tưởng... nhảy múa trong một vũ điệu không được tỉnh táo cho lắm!

Tuy nhiên, nếu lớp trẻ thiếu tỉnh táo thì người già phải tỉnh táo. Tỉnh táo để thấy rằng, hiện tượng khác với bản chất. Sự tìm kiếm, dò đường ấy là cần thiết.Sự trở trăn, vật vã ấy là cần thiết. Sự rối mù, loạn xà ngầu ấy là cần thiết. Sự thai nghén nào cũng quằn quại tâm sinh lý. Sáng tạo không bao giờ là cái tĩnh chỉ, bất động. Những hiện tượng bất ổn, rối ren của “thơ mới” trên sách báo hiện nay là dấu hiệu đáng mừng để chuẩn bị cho một cuộc lột xác ngoạn mục. Vấn đề là thời gian. Các giá trị thẩm mỹ, trong bản chất, nó sẽ tự sàng lọc, tinh chế để đáp ứng cho nhu cầu mến yêu vốn rất quý phái và thanh khiết của tâm linh thơ. Các nhà phê bình văn học phải có cái tâm mát mẻ và rộng rãi, phải có cái trí nhìn xuyên qua hiện tượng để tiếp cận cái bản chất. Nên hướng dẫn dư luận thẫm mỹ hơn là đả kích hiện tượng xã hội. Bởi dù sao nó cũng chỉ là hiện tượng xã hội, luôn luôn nhấp nhô, chìm nổi, xáo trộn để tìm sự quân bình. Rồi những cái “không phải thơ” sẽ tự động đào thải hoặc rút lui vô điều kiện.

Tôi có đọc được một số tác phẩm của một số nhà thơ trẻ, không nhiều lắm, được giải thưởng của Hội Nhà Văn chừng hơn mươi năm về trước như Trương Nam Hương, Nguyễn Quang Thiều... Thơ họ có dáng vẻ mới mẻ của ngôn ngữ, của cấu trúc, của tu từ và hình tượng nghệ thuật nên đã phát lộ được nhiều tầng tư duy và cảm xúc. Trong chừng mực nào đó, họ đã lao động nghiêm túc, có sở học và họ biết rõ mình trao gởi thông điệp gì. Cái mới ở nơi họ chỉ là sự kế thừa, tiếp sinh lực cho truyền thống, cũng từ một dòng chảy nhưng qua một khúc quanh khác mà thôi. Đẹp, hay, chưa dám quyết nhưng còn tồn tại trong lòng độc giả. Lại có một số nhà thơ trẻ khác như Văn Cầm Hải, Ly Huyền Ly, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư...cũng được độc giả chú ý, khen chê bất đồng.  Điều ấy có lẽ đúng do diện mạo thẩm mỹ ở nơi thơ họ chưa được định hình, còn có đâu đó một ít sạn sỏi va động lạo xạo khó hiểu... nhưng dầu sao đã có nét riêng. Tuổi trẻ cố tạo phong cách cho mình thường vấp váp điều đó. Tuy nhiên, ta hãy chịu khó đọc lướt qua và nắm bắt cho được linh hồn của ký hiệu- những thông tin ở ngoài con chữ, ta sẽ hiểu họ nói gì. 

Tuy nhiên, thời gian mới là bậc thầy thẩm định uyên bác và chín chắn nhất. Sự khen chê hiện nay trên thi đàn đa phần là do cảm tính bọt bèo của lớp trẻ đồng lứa; các nhà phê bình học thuật khôn ngoan, già dặn họ chưa “phán” vội. Khó lắm! Tập thơ “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh bị Tô Hoài chê là: “Một gánh đồng nát của các con chữ”; nhưng lại được Trần Mạnh Hảo ca tụng hết lời. Tập thơ của Nguyễn Quang Thiều được giải nhưng lại bị Trần Mạnh Hảo đập cho tả tơi! Thế đó.
Vậy thì hiện nay, thơ mới đã có đường bay hay chưa? Rõ ràng là những cánh chim thơ đang bay luẩn quẩn loanh quanh hoặc đang thăm dò trời cao bể rộng thế nào. Một thi pháp học cho thơ mới, một chân trời mới cho thơ mới đang còn dưới dạng bản thảo. Chúng ta có thể ngồi tĩnh tọa và an nhiên chờ đợi, chắc chắn sẽ uống được một chung trà ngon được ướp sương mai và nắng sớm.

II - Đường bay của thơ, thiền và thơ thiền:
Có người nói thơ rất gần với thiền. Thơ có đường bay thì thiền cũng phải có đường bay.
Thơ bay vi vút trong không gian thẩm mỹ ước lệ.Thiền bay thênh thang trong cõi tĩnh mặc, trong sáng và vô duy. Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, làm cho con chữ lấp lánh nhiều sắc màu, ý tượng; lung linh đa chiều tư  duy và cảm xúc. Thiền là tinh hoa của minh triết đông phương, là đóa trăng soi giữa miền u tĩnh, đánh thức vô minh, vọng lầm để tao ngộ với quê hương sơ thủy. Thơ là sự suy tưởng của triết lý thất bại, là giấc mơ tại thế, là cánh chim ước vọng bay vào giấc mơ riêng tư, cô đơn nhưng lại xa rộng khôn cùng. Nó còn muốn nhảy vào cả hố thẳm vô thức câm nín nữa. Thiền là miền đất bên kia, thuộc lãnh địa của tâm năng trực giác, là chỗ mà lý trí tuyệt lộ, là ngôn ngữ vô ngôn của cố quận thuở ý tưởng và khái niệm chưa sinh ra đời. Thơ thuộc về những tế bào nhạy bén của tim và của óc. Thiền thuộc về con mắt xanh của tâm và tuệ, là cõi thanh trong, vô nhiễm của kiến tri cùng bản năng lông lá thuở sơ khai...

Vậy xin ai đó đừng đánh đồng giữa thơ và thiền. Giữa giấc mộng vừa miên man vừa “đa sự” của thơ và giữa ngôn ngữ tỉnh thức, giác ngộ của thiền không liên hệ gì với nhau.  Nó còn cách nhau nhiều cánh cửa, đôi khi chỉ một sợi tóc cũng khó nhìn ra chân tướng. Tuy nhiên, có điều thật kỳ lạ là có nhiều câu thơ của nhiều tác giả cũ và mới rất giống thiền.Và những trường hợp như thế ta có thể coi là thơ thiền được không?
Ta có thể đọc một số câu rồi lắng tâm mà nghe thử:
 “- Với tay chạm khẽ vào hư ảo
Đánh thức hồn ta tiếng nguyệt vang”
                                                            (Ngọc Quế)
“- Thì xin hạt cát làm tâm ngọc
Đau đớn vo tròn một kiếp trai”
                                                            (Thạch Văn Thâu)                    
Đấy, nó có khác gì thơ thiền đâu? Phải nhìn thấy “khổ đế” của trần gian, phải lịch trải trong cuộc tồn sinh, phải bị đoanh vây giữa muôn trùng hư vô và ảo ảnh... mới thai nghén được những câu thơ rất gần với thiền như vậy.

Nếu chịu khó sưu tầm trong kho tàng thi ca thơ Việt thì thơ giống thiền như thế có thể là cả một tập sách dày. Vậy thì thơ giống thiền và thơ thiền thật sự khác nhau ra sao? Đây là cả một công trình sưu khảo dài hơi và đầy tâm huyết của các nhà nghiên cứu chuyên môn. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, ta có thể phân chia thành hai không gian: không gian ở tầng bậc ý thức, lý tính và coi đây là cõi miền của thơ có tư tưởng thiền; không gian thứ hai ở tầng bậc trực giác, tức là cảm quan thấy ngay thực tại, chưa qua sự chế biến của các ý niệm chủ quan - và đây chính là thực địa, là quê hương của thơ thiền. Bây giờ ta hãy làm một cuộc hành trình khám phá chân diện mục của chúng ra sao!

1%- Không gian có tư tưởng thiền:
Không gian này thật là mênh mông, vô lượng. Và dường như, khắp nơi, khi nói đến thơ thiền thì chúng đều ở trong phạm vi hoạt dụng của ý thức. Đại lược, những bài thơ có tư tưởng thiền thường có những nội dung như sau:
- Có tư tưởng Phật học, thiền học...
- Có những tình cảm thanh cao, thoát tục...
- Yêu cảnh vắng lặng, u tĩnh, thanh bình, nhẹ nhàng, trong sáng, nhàn thoát...
- Yêu các giá trị xuất thế như niết-bàn vô vi, giải thoát nhưng diễn đạt chúng bằng khái niệm...
 - Yêu các giá trị tại thế như từ bi hỷ xả nhưng thường sử dụng công cụ tư tưởng để tỏ bày, lý giải, chứng minh...
- Kinh qua sự lịch trải, chiêm nghiệm trên đường đời nên có những nhận thức, cảm xúc rất gần với Phật giáo.
- Cái nhìn về sự thật, lẽ phải, tình thương chung một dòng đạo lý Đông phương.v.v...

Từ  cái thước đo ấy, lạ lùng làm sao, những bài thơ của các vị thiền sư  Lý, Trần đa phần chúng đều thuộc về không gian này, tức là những bài thơ có tư tưởng thiền chứ chưa phải là thơ thiền.
Giá trị của những bài thơ thiền này đã vượt không thời gian, đã bất tử. Cả ngàn năm nay, lịch sử văn học thiền đã xem là đỉnh cao của trí tuệ (Đạo Hạnh), là cảm hứng siêu thoát, buốt lạnh cả hư vô (Không Lộ), là thông điệp của mùa xuân vĩnh cửu (Mãn Giác) là triết lý hành động giữa cõi vô thường, có không, sinh diệt (Vạn Hạnh)... Đến đây, ta có thể thấy chúng tương cận với thơ của “người đời” - dẫn lược ở trên - xiết bao. Chỉ có một chút khác biệt, là nhờ các vị thiền sự sống thiền nên tư tưởng thơ thiền của họ lạc quan hơn, tiêu sái và an nhiên hơn.
Trong kho tàng văn học thiền từ xưa đến nay đa phần là thơ có tư tưởng thiền, hiếm có thơ thiền. Rồi chúng ta sẽ nói rõ về điều ấy.

2%- Không gian thơ thiền:
Là không gian của trực giác, là thế giới của tỉnh thức hiện tiền. Đây là miền đất thẩm quyền của tuệ giác, với tâm thái vô duy để chụp bắt và nhìn ngắm rỗng rang cái - đang- là, chưa qua sự chế biến của tình cảm, quan niệm, tư kiến chủ quan.
Hiện nay, không gian này rất thưa vắng gót chân thơ. Chính những triết lý cao siêu, những lý giải bác học, những ý tưởng thâm thúy, những hình tượng mỹ học diễm lệ... đã đóng bít cánh cửa này.
Vả chăng, không phải nhà thơ nào cũng có đủ kích thước tâm linh để dạo chơi không gian này- là thế giới mà dường như cái lấp lánh của ngôn ngữ, cái lung linh của những hình tượng nghệ thuật chẳng có đất dụng võ. Đây là thế giới của khách quan, lạnh lùng, vô cảm... Nó chẳng hay, chẳng đẹp, chẳng nghệ thuật, chẳng mỹ học, chẳng nhân bản, nhân văn, nhân tình gì cả!
Xin giới thiệu một số bài thơ ở không gian thiền này:
 “- Cái ao xưa
Ếch nhảy vào
Tiếng nước xao”
                        (Basho)

Cái ao xưa là cái ao cũ, thế thôi. Nó chẳng phải là cố quận, là quê hương sơ thủy, là bản lai diện mục gì gì cả. Đừng khoác cho nó một ý nghĩa, một giá trị, một tư tưởng nào. Nhân sinh đã từng thông khổ, điêu đứng, lầm than bởi những ý nghĩa, giá trị ước lệ, phù phiếm và rỗng không quá nhiều rồi. Vả chăng, chúng là những nhãn hiệu trá hình, tạo nên tương tranh và xung đột. Thiền chụp bắt trong sáng, vô duy, trực đối thực tại, giải thoát toàn mãn mọi tri kiến. Đừng khoác cho nó một hào quang, một vương miện quý phái nào. Con ếch nhảy và tiếng nước xao là hình ảnh, là âm thanh nhân quả hiện tiền. Là cái đang là sống động, chân thực, hiện tồn và mới mẻ.
Ta hãy đọc thêm bài khác:
“- Ta nhìn sâu xa
Dưa nằm trong cỏ
Dấu mấy nụ hoa”
                        ( Basho)
Nhìn sâu xa là cái nhìn của thiền. Một cái nhìn lắng đọng, thông đạt, trong suốt, không mổ xẻ, phân tích, suy diễn lung tung. Dưa nằm trong cỏ, dấu mấy nụ hoa. Thế thôi. Cái đẹp bình dị, ẩn dật, khiêm tốn ấy chúng luôn có sẵn xung quanh ta, nhưng không phải ai cũng thấy được. Thế gian thường nhìn thấy những hình danh, sắc tướng... cùng những biến hóa hư ảo nhưng hấp dẫn kia!
Một bài khác:
“- Gió lay bụi trúc vàng
Bên thềm hoa nắng vỡ
Ô kìa! Giàn phong lan
Một nụ hoa mới nở”
                        (Viên Minh)
Thiền là thấy ngay, chụp bắt ngay cái thế giới đang là, sống động: Đang lay, đang vỡ, đang nở...
Mọi sự, mọi vật, mọi hiện tượng, tâm hay cảnh... luôn đang trôi chảy, dịch hóa, không có gì có thể tĩnh chỉ, bất động. Tất cả đang chuyển động, biến đổi dù một sát-na, một hạt bụi. Chúng luôn luôn “tương động”.
Lại có những câu thơ rất giản dị, nhìn thấy như thế nào thì nói ra như thế ấy - cái chân, cái như thực- cũng thuộc không gian thiền:
“- Xuân đi, đóa đóa hoa rơi
Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu
Việc đời trước mắt qua mau
Tuổi già chợt đến trên đầu thế a!”
                                                (Mãn Giác)
Cho chí bài thơ: “con cóc” cũng rất là thiền:
“- Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi”
Vì đấy là hình ảnh, sự vật đang trôi chảy, đang diễn tiến trong không gian như chân, như thực.
Tuy nhiên, nếu diễn đạt quá khô khan, quá trần trụi như thế thì đâu còn là thi pháp, là mỹ học, là yếu tính của thi ca nữa? Nó chỉ là bức tranh vô cảm. Là thông tin kiểu kết hợp từ của thường ngữ, không phải là thơ. Cũng diễn tiến hình ảnh và sự việc như vậy, nhưng thêm một chút tình, một chút cảnh nữa thì trở thành một bài thơ thiền thật sự:
“- Khách về trời chưa tối
Nhẹ tay khép cổng sài
Quay lưng hiên nắng nhạt
Hương trầm thoảng thư trai”
                                    (Vô Danh)

Vậy, thơ thiền thì chẳng có gì phải bình giải, luận bàn, phân tích cả. Thơ thiền giản dị như: “Anh ăn cơm chưa?”, “Dạ rồi”, “Thì uống nước đi”. Thiền với đôi mắt xanh trong suốt, với đôi bàn tay mở ra, với trái tim và hơi thở cùng nhịp đập và chuyển động với hiện tồn. Chẳng có gì bí mật, ẩn khuất, đa sự... trong ngôn ngữ của bậc đạt ngộ. Ai muốn đi tìm những lý giải cao thâm, những ý nghĩa huyền vi, những mật mã siêu hình, những cảm hứng ngữ trầm hùng, siêu thoát thì hãy đến với những bài thơ có tư tưởng thiền. Nhưng hãy dè chừng một điều: Những ý tưởng thâm trầm hay ho, những luận giải thâm uyên, bác học- như thiền luận của học giả Suzuki- thì chỉ như ngôn ngữ của người ngọng: “Ú ớ...u ơ” ở bên này mép rìa của thực tại mà thôi. Nhà học giả Suzuki đã có tâm huyết và tấm lòng tặng cho lý trí Tây phương món ăn ngon béo bổ, nhưng đã giết chết mầm giống tâm linh trực giác của thiền. Có lẽ trong tất cả chúng ta ở đây, ai ai cũng đã từng nghe tuyên ngôn của thiền Đông độ: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”
Triết lý thất bại, thơ ca mới xuất hiện. Lý trí thất bại, thiền mới mở đường. Thật khá thương cho ai cứ cổ súy thơ ca phải hướng đến triết lý. Thật khá thương cho ai muốn dùng kiến thức, lý trí để hiểu thiền. Xin thưa, thiền có thể hiểu, có thể biết; hiểu và biết ở những khái niệm khô rỗng chứ chưa bao giờ là thực tại. Thiền là cái thấy, là phạm trù của tuệ giác, của chứng nghiêm tự thân. Ở đây là giọt nước trong mát tự đầu nguồn.

Để kết luận,
Thơ, khi đã định hình thì nó có đường bay. Đường bay thấp, đường bay cao, đường bay la đà, đường bay ngất ngưởng, đường bay phiêu hốt, đường bay yêu thương ngọt ngào trần lụy, đường bay khinh linh hạc trắng ngàn sương... Có một vài đường bay ngẫu nhiên ngẫu nhĩ đâu đó của thơ sẽ bắt gặp đường bay của thiền trong cuộc tao phùng hy hữu kỳ ngộ.
Còn chân trời? Mọi chân trời đều thất bại, Có chân trời là có vọng cầu, toan tính, ước vọng. Có chân trời là có lý tưởng, có sở dục tương lai. Mọi lý tưởng, mọi tương lai đều bất thực, nó chính là vọng tưởng phóng hiện ra.
Không biết tôi có tự tin và chủ quan quá không khi xác quyết rằng: Thơ thành tựu cho chính nó, trong đường bay của chính nó, tự do và vô tận mà chẳng tuyên ngôn vị nghệ thuật. Thiền thành tựu cho chính nó, trong đường bay của chính nó mà không tuyên ngôn vị nhân sinh. Cả hai, chúng quên ý nghĩa và mục đích, quên cả chính nó - nhưng mỹ học và nhân văn thì tồn tại.
Cả thơ và thiền đều như trăng, chẳng soi chiếu cho ai mà làm sáng cho tất cả. Trăng, còn để dành cho khách lãng tử và bạn tri âm. Đôi khi nó đối ẩm với chính mình, cỏ hoa và cả trời đất nữa.
                     Huế, HKST, Am Mây Tía - Tháng 6/2006
                                M.Đ.T.T.A

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!