Việt Nam có một khối lượng đồ sộ các di sản đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, công tác quản lý di sản ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập.
Đình Chu Quyến - một trong số ít các công trình được đầu tư tu bổ bài bản, giữ được giá trị của di sản
Việc quản lý chủ yếu là theo ngành dọc của các bộ, ngành, cơ quan chủ quản mà chưa có sự tham gia của các ngành, lĩnh vực liên quan. Điều này dẫn đến một số hệ quả như quản lý di sản thiếu tính bền vững, xung đột giữa bảo tồn di sản và tăng trưởng kinh tế…
Thiếu chuyên nghiệp và chắp vá
Những bài học lớn từ việc quản lý di sản, như công trình kiến trúc khổng lồ trái phép ở lõi di sản Tràng An (Ninh Bình) hay khoan đục để treo bảng tại tháp Chăm cổ ở Bình Định…, vẫn còn rất tươi mới. Các sai sót trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có nhiều nguyên nhân; trong đó có sự thiếu hụt về nhân lực của ngành di sản.
Bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa Bộ VH-TT-DL nhìn nhận, trên thực tế, nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa còn mỏng, năng lực quản lý và chuyên môn còn nhiều hạn chế; các dự án như thống kê, bảo tồn, phát huy giá trị của di tích vẫn chưa được xây dựng, triển khai kịp thời.
Việc thiếu cả “thầy” lẫn “thợ” trong ngành bảo tồn di sản có thể thấy rõ nhất trong công tác trùng tu và tôn tạo di tích. GS-TS Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam chia sẻ: “Nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích của nước ta phần lớn không được đào tạo chuyên sâu về bảo tồn, hệ quả là có nhận thức khác nhau về những nguyên tắc và quan điểm bảo tồn di tích”.
Tình hình thực tế của lực lượng bảo tồn di tích hiện nay là tính chuyên nghiệp chưa cao, lực lượng phân tán. Người được đào tạo không được tham gia dự án bảo tồn di tích; đa số các cán bộ quản lý di tích địa phương đều là kiêm nhiệm, không được bổ túc kiến thức chuyên sâu về bảo tồn. Do vậy, nhiều hành vi xâm phạm di tích không được ngăn chặn kịp thời, các quyết định phạt hành chính, thậm chí kỷ luật cán bộ cũng không thể cứu vãn.
Song, không chỉ với di sản vật thể mà ngay với di sản phi vật thể thì sự am tường về chuyên môn cũng là yếu tố sống còn góp phần nuôi dưỡng tinh hoa văn hóa trong cộng đồng. GS Trần Lâm Biền nhiều lần trăn trở khi nhấn mạnh rằng, chưa khi nào yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực cho việc bảo tồn di sản nói chung và trùng tu di tích nói riêng quan trọng, cấp thiết như thời điểm này. Ông còn chỉ ra những phương án về lâu dài cần phải tính đến là đào tạo đội ngũ “thầy” giỏi. Chỉ có thầy giỏi thì mới có thể xây dựng được đội ngũ thi công - đối tượng trực tiếp chạm vào “cơ thể” di tích, tâm huyết và có tài.
Di sản cần phải hòa nhập
Sau một thời gian dài xây dựng đề án, từ năm 2020, chương trình đào tạo thạc sĩ di sản - Đại học Quốc gia Hà Nội bắt đầu tuyển sinh khóa đầu tiên. Đây được coi là bước đột phá trong đào tạo về di sản tại Việt Nam hiện nay, nhờ lần đầu tiên áp dụng “tư duy tổng thể và cách tiếp cận liên ngành cùng với các công cụ, kỹ thuật và công nghệ hiện đại”, nhằm mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị di sản bền vững.
TS Nguyễn Kiều Oanh, Phó Chủ nhiệm Khoa các khoa học liên ngành, ĐH Quốc gia Hà Nội khẳng định, thay vì đào tạo đơn ngành về bảo tồn, bảo tàng, phục chế… chương trình đồng thời trang bị cho người học các kỹ năng nghề nghiệp có tính thực tiễn cao. Nhờ đó, người học có đủ khả năng nhận diện, phân loại, đánh giá, giải quyết các vấn đề thực tiễn trong nghiên cứu, thực hành và quản lý di sản. Những vấn đề liên quan như chính sách về di sản ở cấp độ quốc tế, quốc gia, đánh giá được tình hình thực thi chính sách; làm chủ được các phương pháp công cụ trong quản lý và lập kế hoạch di sản… cũng được đưa vào chương trình đào tạo.
Nhận định về tính thiết yếu của chuyên ngành này, TS Phạm Cao Quý, Cục Di sản văn hóa Bộ VH-TT-DL cũng khẳng định, ngành học này nằm trong sự phát triển chung của xã hội, của thế giới hiện nay, khi tiếp cận di sản theo hướng mới hơn, tổng hòa hơn.
“Nếu trước kia chúng ta tiếp cận di sản chỉ theo góc độ lịch sử, để bảo tồn và giữ nguyên trạng nó, phục vụ cho việc giáo dục, phát huy một phần để thu hút du lịch đơn thuần, việc mở ra ngành di sản học sẽ xây dựng nên một cách tiếp cận mới đối với di sản. Đó là bảo vệ và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững. Nghĩa là di sản phải hòa nhập, phục vụ đời sống đem lại nguồn lực, sinh kế cho chính con người ngày hôm nay, ứng phó lại những vấn đề bất bền vững trong mối quan hệ giữa di sản và cuộc sống đương đại”, TS Phạm Cao Quý nói.
Với sự ra đời của chương trình đào tạo trên, kỳ vọng đóng góp vào thị trường lao động nguồn nhân lực phù hợp, góp phần giải quyết bài toán về bảo tồn và gìn giữ di sản ở mức độ sâu sắc hơn.
Theo Vĩnh Xuân - SGGP
“Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.
Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?
Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.
Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.
Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…
Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”
Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.
Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.
L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.
Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.
Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...
Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.
Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt
Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.
Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.
Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.