Thi trung hữu quỷ

16:21 04/09/2008
NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

Sống trong cái không gian thơ mênh mông ấy, nên mỗi lần cầm bút muốn làm thơ là sợ, một sự choáng ngợp cứ trùm lên đầu mình. Thơ của các bậc tiền nhân, của các anh tài thời nay quả thật là một nỗi kinh hoàng, là một thử thách nghiệt ngã đối với người cầm bút, nhất là đối với người làm thơ.
Hình như không có ngóc ngách nào là thơ không tới.
Từ nỗi đau quằn quại trong tình yêu:
                        "Người đi, một nửa hồn tôi mất
                         Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ".
Đến một triết lý sống:
                        Thớt có tanh tao ruồi đỗ đến
                        Gang không mật mỡ kiến bò đi".
Và rồi đến cả vận nước, một điều thật cao sang, xa vời, mênh mông, thế mà chỉ một câu thơ đã khái quát được tất cả:
                       "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Từng mảng thơ nhỏ thì nhiều người đã làm. Nhưng cái nhìn tổng quát lớn chưa có. Nếu tổng quát mọi nền thơ trên thế gian này, chắc chắn thơ sẽ là một cuốn đại từ điển khổng lồ về cuộc đời này.
Chữ "quỷ" là một danh từ chỉ một con vật không có thật trong đời. Song chữ quỷ được dùng với nhiều nghĩa. Ví như "quỷ quái", "quỷ quyệt" chỉ sự tàn ác, nham hiểm. "Quỷ thật" lại là một lời khen chỉ sự tuyệt vời, kể cả chỉ sự tột đỉnh. Với nghĩa này, chữ "quỷ" trong thơ giống như chỉ cái thần thái trong thơ vậy.
Đọc thơ cho bạn nghe, câu nào được bạn vỗ đùi thốt lên: "quỷ thật", ấy là một lời khen tuyệt vời.
Sông Hương ở Huế là một dòng sông được nhiều người ca ngợi, mỗi cách nhìn là một phát hiện đầy sắc sảo. Và đều rất thơ.
Đây là cách nhìn của Nguyễn Bính:
                        "Con sông không rộng mà dài
                         Con đò không chở những người chính chuyên"
Thu Bồn thì lại bâng khuâng:
                        "Con sông dùng dằng, con sông không chảy
                         Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu".
Nếu nói thơ viết về sông Hương, không thể không nhắc đến Cao Bá Quát. Một con người cao đạo, ngang tàng, đã tuốt gươm đâm vào cái xã hội đang băng hoại, mất hết nhân tâm. Ông đã tả sông Hương vào một buổi sáng bằng một câu thơ như chí khí ông vậy:
                        "Trường Giang như kiếm lập thanh thiên"
Dịch nghĩa là sông Hương như kiếm dựng trời xanh. Có người dịch là "dựng giữa trời xanh" đã hay, nhưng dịch là "dựng trời xanh" thì càng tuyệt diệu.
Đọc thơ thấy người là vậy.
"Thi trung hữu quỷ" cũng là vậy.
Những câu thơ đọc lên cứ giật mình thon thót, bởi vì nó hay quá. Nó "quỷ quá". Với những chàng trai biết chữ, có đọc, có lẽ không ai không thuộc câu thơ này của Nguyễn Bính:
                        "Chao ôi ba bốn tao ân ái
                         Cũng đủ tan tành một kiếp trai"
Có nhiều cuộc anh em ngồi với nhau, xung quanh chuyện thơ, đều nhất trí với nhau nhận định này: nhà thơ thì nhiều mà thi sĩ thì ít quá. Như thế quả là điều thật may. Bởi đền thơ thiêng liêng lắm. Xưa các cụ đốt trầm lên rồi mới đọc thơ. Đủ biết các cụ ngưỡng vọng thơ biết nhường nào. Có lẽ nên nói một câu với những người cầm bút làm thơ bây giờ là: "Xin đừng đùa với thơ".
Thơ tình thời nay đang lâm vào cảnh khủng hoảng. Làm thì dễ mà hay thì khó. Xưa, đâu phải các cụ không làm thơ khoả thân.
Cụ Nguyễn Du viết:
                        "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
                         Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên".
Đó là một bức tranh toàn cảnh. Hay tột đỉnh. Đọc xong ai cũng nhớ.
Hồ Xuân Hương tả cô gái ngủ ngày:
                        "Yếm đào trễ xuống dưới nương ong
                        Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
                        Một lạch đào nguyên suối chửa thông".
Mỗi chữ đều rất thật mà sáng ngời. Người đọc không cảm thấy có gì là "tục", là "dâm" cả. Dù "toà thiên nhiên" cứ lồ lộ, không hề che đậy một chút nào.
Đến như cụ Hồ cũng có một câu thơ tình ái, không là người sâu sắc, cảm thông, từng trải không thể có được câu thơ nặng tình đến thế này:
                        "Anh ở trong song sắt
                         Em ở ngoài song sắt
                        Gần nhau trong tấc gang
                        Mà biển trời cách mặt".
Bốn chữ "biển trời cách mặt" quả là chữ thần. Đọc lên hiểu hết, hiểu tận cùng nỗi đau của người vợ tù đi thăm chồng, có thể tay cầm tay, mặt chạm mặt mà vẫn cứ vời vợi nghìn trùng.
Trong thơ trữ tình không thể không nhắc tới Nguyễn Công Trứ. Cụ viết sát sạt:
                        "Giang sơn một gánh giữa đồng
                         Thuyền quyên ư hử anh hùng nhớ chăng?"
Đâu phải các cụ "hoa hoè, hoa sói", mà hết sức cụ thể, cụ thể trong miêu tả, cụ thể cả trong tâm trạng. Những câu thơ mãi mãi là của muôn đời.
Bây giờ các nhà thơ trẻ của chúng ta cũng làm thơ tình. Nhiều người làm rất hay. Có bốn câu thơ viết ngay về sự tan vỡ trong tình yêu:
                        "Bây giờ trăng xẻ làm hai
                         Phần em em muốn tặng ai thì tuỳ
                        Phần anh anh cất nó đi
                        Để đem ra ngắm những gì đôi ta".
Một nỗi đau thật thấm thía.
Thiên chức của nhà thơ là rất thiêng liêng. Không ai nhạy cảm bằng các nhà thơ. Đúng như Inrasara, một nhà thơ người Chăm viết:
                        "Không có ai
                        trái tim dễ cháy hơn tim chúng ta
                        phía khổ đau linh thánh.
Sự nhạy cảm ấy, sự thấy ấy có lẽ cũng nên nhớ lời khuyên rất có ích này: "Viết cái gì? Viết cho ai?" để mãi mãi giữ linh thiêng cho chốn đền thơ của chúng ta. Đừng để con cháu chúng ta nguyền rủa những câu thơ "mất nết" của chúng ta bây giờ.
N.Q.H
(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...