HOÀNG LONG
Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…
“Trang Chu mộng vi hồ điệp” - Ảnh: internet
"sudden fiction" (truyện bất ngờ), "postcard fiction" (truyện bưu thiếp), "minute fiction" (truyện mini), "furious fiction" (truyện hỏa tốc), "fast fiction" (truyện nhanh), "quick fiction" (truyện vội), "skinny fiction" (truyện mỏng) và "micro-fiction" (vi truyện) hay một tên gọi đặc biệt là "truyện dài bằng hơi khói" (với ý nghĩa là thời gian để đọc nó chỉ bằng thời gian hút xong một điếu thuốc lá).
Người Trung Quốc gọi truyện cực ngắn là “vi hình tiểu thuyết”, người Nhật gọi là “Sho-to sho-to” tức phiên âm của chữ “short short story”. Sau này còn có tên “siêu đoản thiên tiểu thuyết” (chotanpen shosetsu) rất thịnh hành cho điện thoại di động. Có hàng trăm trang web chuyên về truyện cực ngắn với những giải thưởng riêng. Riêng Kawabata Yasunari thì gọi riêng thể loại truyện cực ngắn của mình sáng tác là “truyện ngắn trong lòng bàn tay” (Tenohira no shosetsu). Trong cuộc đời mình ông viết chừng 146 truyện trong lòng bàn tay và cho đó mới là tinh hoa của văn nghiệp mình. Vào những năm cuối đời Kawabata đã gắng cô đúc lại kiệt tác “Xứ tuyết” của mình thành một truyện ngắn trong lòng bàn tay”.
Tuy là một thể loại tương đối mới nhưng truyện cực ngắn đã có một lịch sử lâu đời. Ta có thể xem những câu thoại đầu, những mẩu chuyện trong Kinh Phật, ngụ ngôn Aesop… là những truyện cực ngắn tuyệt hay. Chẳng hạn như một câu trong kinh Pháp Cú “Voi không đi dạo chơi trên lối mòn thỏ chạy” cũng có thể xem là một truyện cực ngắn. Tuy không định danh là truyện cực ngắn nhưng những mẩu chuyện trong “Trang Tử - Nam Hoa Kinh” có thể coi là kiệt tác. Chẳng hạn như truyện “Trang Chu mộng vi hồ điệp” sau đây:
“Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu” (Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê).
Rất nhiều nhà văn xuất sắc đều từng thử qua thể loại truyện cực ngắn. Ta có thể điểm qua những cái tên lừng danh như Franz Kafka, Jorge Luis Borges, Raymond Carver, John Updike… Trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là Augusto Monterroso (1921 - 2003) lừng danh như một “thiên tài của truyện cực ngắn” và được xem như một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ đặc nhất trong văn chương Mỹ La-tinh thế kỷ 20. Ông có một tác phẩm được xem là ngắn nhất và nổi tiếng nhất thế giới trong loại truyện cực ngắn. Đó là truyện “Con khủng long”, chỉ có một câu ngắn 8 chữ tiếng Tây-ban-nha.
“Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó”.
Vậy mà cái truyện cực ngắn này lại là đề tài cho nhiều luận án Tiến sĩ văn chương.
Tuy phát triển rực rỡ như vậy nhưng cho đến bây giờ ở Việt Nam vẫn còn nhiều hiểu lầm tai hại về truyện cực ngắn. Ngộ nhận thứ nhất là cứ nén dung lượng ngôn từ đến cực hạn là truyện cực ngắn. Chính vì vậy những tập truyện cực ngắn Trung Quốc, Việt Nam đều gần như là những đoản văn hay truyện ngắn rút gọn mà thành. Theo chúng tôi, truyện cực ngắn dĩ nhiên phải ngắn, nhưng không phải cứ ngắn là truyện cực ngắn. Một truyện cực ngắn vào khoảng 500 đến 700 chữ nhưng nó phải diễn tả được tư tưởng của tác giả, là một phần của bức tranh toàn thể. Nếu không chúng ta chỉ có những đoạn văn ngắn chứ không phải là truyện cực ngắn, có thể xem là những mẩu vụn cảm nghĩ chứ không phải là tư tưởng. Nếu tác gia có cách nhìn tư tưởng của riêng mình thì chỉ cần đọc vài ba truyện người ta có thể nhận ngay ra được là truyện của ai. Trong sáng tác truyện cực ngắn hiện nay, rất ít người có được điều này. Cho nên nếu để những truyện cực ngắn cạnh nhau chúng ta rất khó biết được tác giả, vì truyện nào cũng chỉ là những ý nghĩ vụn vặt, những cảm nghĩ rời rạc mà thôi. Muốn có đặc trưng riêng, tác giả phải có một tư tưởng và một cách diễn đạt của riêng mình để làm cho những truyện cực ngắn tạo nên một thế giới riêng, các truyện đứng cạnh nhau cùng soi sáng thế giới ấy.
Ngộ nhận thứ hai về truyện cực ngắn là xem “truyện cực ngắn là một thể loại bình dân”. Đây là ý kiến của Dương Hiếu Mẫn, Tổng biên tập tạp chí "Bách Hoa Viên" kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Truyện cực ngắn chọn lọc, được đánh giá là một người có công lớn trong sự nghiệp vun trồng thể loại truyện cực ngắn Trung Quốc. Theo chúng tôi đây là một quan niệm hết sức phiến diện và sai lầm vì không có thể loại bình dân hay quý tộc. Rơi vào tay cao thủ thì một lá cỏ mong manh không những có thể triển khai được một tầm sát thương rộng lớn mà còn thể hiện được một đường bay thanh thoát, phiêu diêu. Ngôn ngữ nói chung và thể loại nói riêng tự bản thân nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Ta nói cái gì và nói như thế nào mới chính là điều cốt tủy. Nếu như có sức nén của một tư tưởng thì một cuốn tiểu thuyết, một dòng thơ ngắn hay vài ba dòng chữ cũng gây nên một hiệu ứng thẩm mỹ như nhau. Hơn nữa, bất cứ thể loại văn học nào cũng có giới hạn. Bản thân con người cũng có giới hạn. Vấn để là xử lý “cái giới hạn” như thế nào, biết nương vào cái giới hạn để nói lên cái vô hạn. Điều đó phụ thuộc vào nội lực của người viết.
Như vậy, đặc trưng của truyện cực ngắn là gì? Theo chúng tôi một truyện cực ngắn phải cần bốn đặc điểm sau:
Thứ nhất mỗi truyện là một hình ảnh thể hiện tư tưởng và phát xuất từ bên trong, từ suối nguồn tâm linh sâu kín, từ nội tâm mãnh liệt của tác giả. Nhà văn phải có một nhân sinh quan của riêng mình, và tìm kiếm hình ảnh để diễn tả cái tư tưởng, nhân sinh quan đó. Chẳng hạn qua những truyện “Cây cầu” hay “Trước cửa pháp luật” ta thấy truyện cực ngắn của Kafka luôn nhớp nháp, nhầy nhụa một thứ đờm dãi, máu huyết của riêng ông với thứ không khí chập chờn đặc trưng của cơn ác mộng. Truyện hình thành từ sâu thẳm bản ngã Kafka và hình ảnh cây cầu chỉ là một cái cớ để thể hiện ý tưởng đó. Cái tư tưởng cuộc sống bình yên riêng tư của mình đột nhiên bị một yếu tố bên ngoài như luật pháp, một kẻ phá đám xen vào hủy hoại luôn hiện diện trong các tác phẩm của ông, làm thành một thế giới Kafka riêng biệt. Nhưng truyện cực ngắn là mảnh vỡ lấp lánh của thế giới ấy. Các hình ảnh như người bảo vệ trước cửa pháp luật, kẻ đi qua cầu, con kên kên, cảnh sát trong truyện cực ngắn đều là có thể xem là sự phản chiếu của một tư tưởng chung mà thôi.
Theo chúng tôi đây là đặc điểm quan trọng nhất vì con đường sáng tạo là hành trình phát kiến tâm linh. Viết là một sự chữa trị và một chuyển hóa tâm thức. Văn chương, triết học cũng là thứ gia vị để giúp mình sống hay hơn, nhân bản hơn giữa cuộc đời này. Bất cứ văn chương triết lý nào không giúp con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn đều là thứ văn chương triết lý để chơi làm kiểng. Phải mở rộng và chuyển hóa tâm thức. Phải biết chấp nhận hiện thực và sống vui trong thế giới huyễn mộng này. “Chúng ta có thể trở nên nhân bản hơn bằng cách trở nên hoàn vũ hơn” (Okakura Tenshin).
Đặc trưng thứ hai của truyện cực ngắn là hình ảnh truyện hấp dẫn đủ để diễn tả tư tưởng. Hình ảnh con khủng long trong truyện của Augusto Monterroso hay con voi trong câu kinh Pháp cú “Voi không đi dạo chơi trên lối mòn thỏ chạy” ám ảnh người đọc, gợi lên nhiều suy tư. Do đó đây có thể xem là những truyện cực ngắn thành công. Hình ảnh truyện càng độc đáo thì càng để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc. Hầu như ai cũng bị ám ảnh bởi hình ảnh con kên kên mổ vào người trong truyện Kafka.
Nhà văn phải có một nhân sinh quan, một tư tưởng riêng mình về cuộc sống. Sau khi đã có một hệ tư tưởng riêng cho mình, người viết bắt đầu tìm kiếm hình ảnh. Hình ảnh đến từ bên ngoài nhưng là biểu tượng để nói về cái bên trong, cái nội tâm sâu kín, phát xuất từ một suối nguồn tâm linh mãnh liệt. Bởi văn chương diễn đạt tư tưởng bằng hình ảnh nên có thể nói kiếm tìm hình ảnh là công cuộc quan trọng nhất của sáng tạo sau việc phát kiến tâm linh.
Đặc trưng thứ ba là tính gợi mở. Tính gợi mở này có được do sự nén ngôn từ nên để lại rất nhiều khoảng trống, khoảng trắng. Sau mỗi truyện phải là một “hậu cảnh thăm thẳm” (từ của nhà văn Mai Sơn). Như một bài haiku Nhật Bản “ông lão ấy, cố quên đi chuyện tình, mưa mùa thu lất phất” nói về mối tình của ông già với người con dâu gợi cho chúng ta bao nhiêu ý niệm. Vì nén đến cực hạn nên mới mở rộng ra vô cùng. Trong tranh thủy mặc chúng ta cũng nhận thấy điều này qua triết lý “khoảng trắng là một phần của bức tranh”.
Đặc trưng cuối cùng theo chúng tôi là mỗi truyện cực ngắn là một thực thể sinh động, màu mỡ thịt da ngôn từ và hình ảnh chứ không phải chỉ là những câu văn cụt ngủn ghép lại với nhau. Tức là tuy dùng ngôn từ cực hạn nhưng truyện phải có da thịt, sức sống chứ không phải chỉ có xương cốt mà thôi. Trong ý nghĩa đó, những truyện chỉ có một từ rất khó có thể gọi là truyện cực ngắn.
Như vậy, sau khi tìm hiểu bốn đặc trưng trên, chúng ta thấy cái thế giới thống nhất của truyện cực ngắn đến từ sự nhất quán của nhân sinh quan và tư tưởng quan của tác giả. Có nghĩa là mỗi truyện cực ngắn chỉ là một mảnh trong trò chơi xếp hình, một góc của bức tượng hay một cây trong toàn thể khu rừng. Giữa các truyện cực ngắn có mối liên kết nội tại. Theo đó thì bớt đi một hai truyện độc giả cũng hình dung được thế giới riêng của nhà văn, thêm vào một hai truyện càng làm cho thế giới đó lung linh màu sắc. Những truyện chỉ là những hình ảnh khác nhau của cùng một bản thể.
Khi đọc truyện cực ngắn tức là ta bước vào một thế giới. Thế giới ấy sẽ có nhiều điểm tương đồng với ta nhưng cũng có phần khác biệt. Cái thế giới riêng tư ấy ta chỉ có thể bước vào và cảm nhận chứ không thể sửa sang hay bắt chước. Nó là độc sáng. Vì vậy những truyện cực ngắn kinh điển không ai có thể bắt chước được. Chúng hiện diện rất gần, ta có thể bước vào dạo chơi nhưng nếu muốn sửa sang, chúng ta hãy sáng tạo một thế giới khác, riêng của mình. Vì con người có thể có những tương đồng do cộng nghiệp nhưng do biệt nghiệp mà mỗi cá nhân lại khác nhau, riêng tư, độc nhất.
Đối với nhà văn sau khi tạo dựng thế giới truyện của riêng mình, y có thể ngồi xuống và quan sát. Có những chỗ thô nhám, cần phải sửa đổi, có những hình ảnh chưa rõ cần phải bổ sung. Đôi khi cần thêm các bảng dấu chỉ dẫn đường cho độc giả khỏi lạc lối bằng cách nhấn mạnh một vài hình ảnh quan trọng. Thế giới ấy sẽ tương thông với vô vàn các thế giới khác đã được những văn tài xuất chúng tạo ra. Độc giả có thể đi xuyên qua những thế giới ấy và tìm kiếm tâm hồn mình. Và khi ta đã đốt cháy hết mình cho sáng tạo, dựng lên một thế giới riêng tư tốt đẹp hết mức có thể được thì ta đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Và rồi ta rút lui khỏi thế giới, đội nón rơm, kiếm một ngọn núi nào ẩn dật, sống vui vẻ quên đời. Thế giới ta đã tạo ra đó tự đứng vững chãi một mình qua tháng năm qua biến thiên thời đại. Vì lẽ chính trị là nhất thời nhưng văn chương và sự nghiệp giáo dục con người là vĩnh cửu.
H.L
(SH306/08-14)
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.
NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.
THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.
HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.
HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.
TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.
THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.
TRẦN HOÀI ANH 1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.