NGUYỄN KHẮC THẠCH
Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.
Bởi vậy, có thể nói, tập thơ lục bát này, bằng phương pháp ngoại suy, từ chữ lục đã thấy rằng, nó là sự cảm biến tương liên giữa lục căn với lục trần, là sự khế hợp đồng cư giữa lục thức với lục dục qua sở niệm trì căn mật hạnh và tỉnh chỉ mật ngôn của chủ thể sáng tạo. Nếu chữ lục tách ra khỏi từ lục bát được “vận vào” nhiều nghĩa khác thì chữ bát đứng riêng cũng không kém. Trong tâm thức người đọc thuộc dòng văn hóa lịch sử phương Đông thì sự liên tưởng chữ bát có thể là Bát quái trong dịch lí hay Bát chánh đạo trong kinh điển Phật giáo đại thừa. Bát chánh đạo là con đường của pháp hành qua tám cửa ải nằm trên thân - khẩu - ý của con người mà bất cứ ai muốn giác ngộ giải thoát đều phải bước qua. Bước qua đó cũng có nghĩa là bước qua chính mình để ra khỏi lục đạo luân hồi sinh tử dự phần cảnh giới Niết Bàn. Như đã nói trên, nếu câu lục đang dùng dằng với đời thì câu bát lại dung dăng với đạo. Là một cấu trúc chỉnh thể của hình thức mang tính nội dung, Lục bát đồng dao vẫn là dấu trường ngân giáo nghĩa Phật thừa như tập Thiền mây mà tác giả Trần Lan Vinh đã cho ra mắt trước tập thơ này. Sơ chú về từ lục bát đại thể là thế, còn từ đồng dao dường như đơn giản hơn. Song ở đây, nó dễ bị y báo trong nghĩa đen của từ là lời bài hát truyền khẩu của trẻ em. Nhưng đâu phải vậy. Tập thơ vẫn dành cho người đọc mọi lứa tuổi, mọi đối tượng. Nó viên dung giữa cơ và lí, giữa lí và sự, giữa bình dân với bác học. Từ đó, với cú pháp đoạn chương thủ nghĩa, Lục bát đồng dao không chỉ là tên riêng (biệt tự) của tập thơ mà nó còn sở vọng định danh một thể loại văn học, một thể loại thơ như thế. Thơ Lục bát Việt Nam đã đạt đến mẫu mực và bất hủ như Truyện Kiều mà có lúc người ta đã khởi xướng suy tôn nó là quốc hồn của dân tộc. Nó là thể thơ đặc thù, trường thọ và luôn đồng hành với đời sống văn hóa nghệ thuật nước nhà. Dù vậy, trên hành trình cách tân cải dạng thơ, đã không ít người cố sức tìm tòi làm mới lục bát nhưng cũng chỉ luẩn quẩn trong bút pháp ngắt dòng, đảo vận chứ không Dám đem trần cấu dự vào bố kinh phá vỡ cấu trúc nguyên thủy của nó. Về mặt bố cục, dòng thơ từ một đến hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy chữ đều được sử dụng và nó bất định, tùy cảm hứng và quan niệm thẩm mĩ của mỗi tác giả. Riêng Lục bát đồng dao của Trần Lan Vinh lại được đặt định trùng điệp theo hình thể mỗi dòng hai chữ, đều đặn. Như vậy, câu lục được ngắt thành ba dòng và đương nhiên câu bát là bốn dòng.
Con về
Theo tiếng
Mõ đưa
Lộc sen
Ai chấm
Lưa thưa
Mặt hồ
(Lộc sen)
Mặc dù khi đọc, theo thói quen, người ta thường nhiếp hơi theo sự ngắt dòng nhưng trọng âm vẫn rơi vào chỗ gieo vần. Cứ tiếp nối nhịp nhàng tương tục như một dòng chảy triền miên vọng vang âm hưởng làn điệu những khúc hát đồng dao. Có lẽ đây là chỗ khác biệt mang tính áp đặt khuôn mẫu theo nguyên tắc đồng đẳng nội tại của thi ca để manh nha một thể loại thơ mang tên Lục bát đồng dao. Ít nhất thì với sự biểu đạt bâng lâng ấy, tập thơ cũng đã diễn hóa được một hình thức mới lạ cho lục bát. Ngoài thủ pháp ngắt dòng, thảng hoặc đôi chỗ cũng có kết hợp với sự vắt dòng. Vắt dòng vốn không có gì mới so với thi ca Việt Nam nhưng nó được coi như một đặc trưng của thơ Tân hình thức ở phương Tây.
Khuyết đầy
Hỏi cõi
Đa đoan
Nợ thương
Nợ nhớ
Nợ hoan
Hỷ cười
(Tìm thanh tao)
hoặc
Trời quang
Lại sợ
Sương mù
Trời mưa
Lại sợ
Nắng lừ
Đừ say
(Nọ kia)
Trong tập không ít những câu thơ hay, những biểu tượng thơ ngơ ngác, ngỡ ngàng, bàng bạc một không gian thiền na tĩnh mạc.
Bước về
Cát vỡ
Chân chim
Già nương
Bóng gậy
Nắng chìm
Vạt sương
(Cháu gọi bà)
hoặc
Bút nghiên
Bao sái
Tam tòa
Gió dâng
Sen Trắng
Mõ đà
Tụng sương
(Gieo đồng)
Lục bát đồng dao nói riêng và thơ Trần Lan Vinh nói chung không bị tạp nhiễm bởi những tập khí khinh khi ngã mạn của tri thức như trò chơi trí tuệ thi ca ở nền văn minh kỹ trị. Với thơ, sự trình diễn những biến ảo của tri thức không bao giờ vượt khỏi giới hạn của những gì đã biết và cũng không bao giờ chạm vào được những gì đang là. Cái đã biết là vay mượn sự cũ mòn, cái đang là là sự trực khởi trực giác hiện tiền nên luôn mới lạ. Thơ Trần Lan Vinh thuộc dòng trực giác. Trực giác là sự biết không nhân danh một bản ngã nào hay sự biết không có ý thức quy ngã rằng ta đang biết . Ta đang biết là thuộc tính của cái thức phân biệt và nó luôn đồng lõa đồng hành với cái tôi/ bản ngã. Bản ngã vốn không có thật nên cái tôi đại diện cho nó cũng chỉ là sự hư cấu của hư cấu. Nói theo quan niệm giáo lí đại thừa thì đó là một cơ chế giả hợp giả danh. Thơ trữ tình cũng như thơ tự sự, cái tôi bản ngã thường được cấu hình ngôn ngữ với cú pháp đại từ nhân xưng số ít ngôi thứ nhất. Trong thi phẩm Trần Lan Vinh không thấy cái tôi nhân xưng này. Nó mô phỏng nét đặc trưng của nghệ thuật vô ngã. Nghệ thuật vô ngã là một khoảng trống mơ hồ chủ thể gây hiệu ứng cộng sinh đối với những người thụ hưởng. Hầu như các tác phẩm lớn, về mặt tu từ chữ tôi được ẩn dấu đâu đó như một chiêu thức quyền biến để người đọc thời duyên tùy nghi chia sẻ. Khi thi hào Nguyễn Du thốt lên Đau đớn thay phận đàn bà thì cái tôi nào đau? Phải chăng là chúng ta - tất thảy những người đọc đồng cảm đều đồng thanh tương ứng? Cái vô ngã ấy đôi khi lại được hoán dụ bằng cái ta huyễn tượng “Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô”như trong tình khúc Rừng xưa đã khép của Trịnh Công Sơn hoặc “Nhắc chi ngày xưa đó đến xe buồn lòng ta” trong Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao. Nó gợi ra một cảm giác nao nao, dùng dằng, quyến niệm. Bởi vậy, ma lực truyền cảm, lay động ở nghệ thuật vô ngã dường như là vô ngại. Con đường nghệ thuật nhân loại đi từ vô ngã qua bản ngã rồi lại về vô ngã. Nếu vô ngã khởi đầu bước vào bản ngã thì vô ngã sau cùng lại bước ra từ bản ngã. Điều này, nó tương ưng với cảm thức của thiền nhân. Khi chưa tu thì thấy sông là sông, núi là núi. Khi vào tu thì thấy sông không là sông, núi không là núi. Khi tu xong rồi lại thấy núi là núi, sông là sông.
Rõ ràng nghệ thuật vô ngã thuộc về tâm chứ không thuộc về trí. Dòng thơ Trần Lan Vinh không mang dấu ấn của trí năng bởi nó được bừng nở trong tuệ giác. Đấy cũng là đặc trưng của thơ cội nguồn, thơ truyền thống. Thơ hiện đại hay hậu hiện đại thường được phóng chiếu từ tri kiến mà tri kiến là cái thấy sự vật hiện tượng một cách phiến diện, không thật như chính nó bởi sự phủ dụ và khúc xạ của các quan năng phàm tục lục thức trong chủ thể sáng tạo. Nếu thơ là sản phẩm của tri kiến thì chẳng khác gì những sinh linh được phôi thai bởi công nghệ nhân bản vô tính. Nhà triết học, nhà nghiên cứu khoa học nhân văn lỗi lạc người Nga M. Bakhatin từng mỉa mai rằng đấy là sự đề cao “con điếm trí óc”. Hệ hình nghệ thuật tân thời coi thơ là một hành vi chính trị cao quý phản ảnh hiện thực khách quan như một trò chơi. Quan niệm “trò chơi” ở đây dễ chấp nhận với bách tính bởi nội hàm co dãn và tính chất cởi mở của nó. Lẽ vậy, thơ Trần Lan Vinh - một dòng thơ sạch đã giải thoát tri kiến và tịnh hóa tự ngã cũng có thể thông dự vào trò chơi huyền viễn này. Dẫu rằng nó chỉ là tiếng ú ớ mê sảng như cơn mộng du diễu hành những cảm hứng hư không. Nhưng hư không là thực tướng của vạn vật, là phương tiện thiện xảo bản nhiên kết nối cùng thực tại. Nếu hỏi tác giả thơ là gì thì chắc chị cũng chỉ có câu trả lời như Blaga Dimitrova đã viết trong Ngày phán xử cuối cùng Ôi, nếu biết thơ là gì thì cả đời tôi, tôi chẳng đau khổ thế này. Quả vậy, khổ không chỉ là phẩm chất hay căn bệnh của những kẻ đa mang mà nỗi đời xưa nay vốn vậy. Khổ là một trong bốn chân lí (Tứ diệu đế) mà Đức Phật đã chỉ rõ. Dù chia ra tam khổ hay bát khổ thì cũng thế. Cổ Đức nói Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn (Biển khổ mênh mông, quay đầu lại là bờ) nhưng với nhà thơ, với những người Đã mang lấy nghiệp vào thân thì dù biết thế, họ vẫn cứ bơi, bơi như triền sóng biết nửa vời tan vỡ vẫn dâng lên...
Lục bát đồng dao của Trần Lan Vinh là sự thể nghiệm cách tân truyền thống bằng thi pháp so đũa ngắt dòng, cứ từng đôi, từng cặp, hai chữ trên một dòng. Đây không phải tác giả chiểu theo mốt thời thượng của nghệ thuật sắp đặt hay trình diễn mà chỉ là sự tùy kì tự nhiên. Và dù sao, chị cũng đã dọn ra mâm cỗ với bát đũa riêng của chính mình trong lâu đài thơ cổ kính trang nghiêm.
N.K.T
(SH314/04-15)
NGUYỄN VĂN HÙNG
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
LGT: Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.
ĐẶNG ANH ĐÀO
Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.
NGUYỄN VĂN THUẤN
Diễn ngôn tâm thần phân lập (discours schizophrénique) là thuật ngữ do hai triết gia và nhà nghiên cứu văn học người Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. L’Anti-Œdipe).
ĐỖ QUYÊN
“Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
(J.W. Goethe)
Từ năm 1972 cho tới nay đã có nhiều học giả, qua tập Yên thiều bút lục mới sưu tầm và vài nguồn tư liệu khác, đưa ra nhận định: Câu đối “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của tri phủ Ngải Tuấn Mỹ người Hoa tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản khi sứ bộ Việt Nam ghé lại địa phương này chứ không phải của Cao Bá Quát.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Tính khả hữu từ sự xuất hiện của đối tượng trong các chiểu sự là hình thái của đối tượng.(1) (Wittgenstein, Tractatus, 2.0141)
“Khi một điều gì đó trở nên đúng trong hư cấu thì ở đó không còn sự phân biệt khác nhau về mặt hữu thể học và nhận thức luận.”(2) (Gregory Currie)
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Hài hước: cơn say của tính tương đối nhân thế, niềm vui thú kỳ lạ nảy sinh từ niềm tin chắc rằng chẳng có sự tin chắc nào cả. (Milan Kundera)
NGUYỄN THANH TÂM
Đạo đức (ethic, morality), luân lý (moral), theo Edgar Morin, hai khái niệm này không tách rời nhau, đôi khi chồng lấn và có thể sử dụng bất cứ từ nào(1).
NGUYỄN QUANG HUY
- Để tìm hiểu không gian xã hội của những người sản xuất văn hóa, cần phải tư duy theo mô hình quan hệ.
- Sự việc, hiện tượng bản thân nó không quan trọng, mà chính quan hệ giữa chúng mới có ý nghĩa.
(Pierre Bourdieu)
KHẾ IÊM
Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.
PHẠM THỊ HOÀI
Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.
LỮ PHƯƠNG
Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.
MAI ANH TUẤN
Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.
ĐỖ ĐỨC HIỂU
14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.
JOSEPH EPSTEIN
(Tiếp theo Sông Hương số 319, tháng 9/2015)
TRẦN HOÀI ANH
1.
Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.
JOSEPH EPSTEIN
Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
(La Bruyère).
LÊ THÀNH NGHỊ
Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.