HỒ VĨNH
Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương là một thành viên trong hội thơ Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm hội chủ. Năm 1933 thi đàn đặt tên là Vỹ Hương thi xã, qua năm 1950 các thi hữu bắt đầu đổi tên Vỹ Hương thi xã thành Hương Bình thi xã.
Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương. Ảnh tư liệu của Hồ Vĩnh
Từ đó trở đi:
Cố đô có Hương Bình thi xã
Nhân vật đều trang nhã nho phong
Nỏ ai vô đó lạ lùng
Chỉ trong con cháu Tiên Rồng gặp nhau
để cùng vui chung trong cuộc xướng họa thi ca, cứ mỗi tháng Hương Bình thi xã họp một kỳ, gọi là kỳ “Hội ngâm” trong đó có một đề thi (thơ) chung cho các thi hữu theo đó mà làm rồi lựa chọn và tùy bài thơ, sẽ để phóng vần hoặc họa vần.
Hiện nay tôi còn lưu giữ một số bài thơ của cụ Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương với một số thi hữu cùng nhau xướng họa qua bài thơ:
![]() |
Bút tích của thi hữu Quốc Hoa |
Hỷ chúc tân xuân
Ôn tám mươi hai, mụ bảy ba,
Giây tơ nguyệt lão khéo xe mà.
Sen hồng hoàn mãn Xuân thêm sắc,
Liễu quý anh tài quế trổ hoa.
Đãi dưỡng cam sanh ân hải hội,
Trang nghiêm giáo pháp phước hà sa.
Thiện căn tu chỉnh lòng thanh tịnh,
Trông chín mười mươi cũng đậm đà.
Thi hữu Nguyễn Cương
Phụng họa vần:
Trăm năm mươi rưỡi, cái niên ba,
Ôn mụ như kia ít kẻ mà.
Trước đã tu nhơn tròn phước quả,
Rày đây tích thọ trổ kim hoa.
Trời xuân đầm ấm tươi cây cỏ,
Tiệc hạ vui vầy rạng gấm sa.
Muốn thấy Ưu đàm bên cõi Tịnh,
Chuyên tâm trì niệm đức Di Đà.
Thi hữu Quốc Hoa (1966)
Cụ Quốc Hoa là nhà nho, thợ thêu cung đình Huế (Tú tượng ty), cho nên phần lớn thơ của cụ đều có nhiều giai tác khác, hoặc để tự trào, tự thuật, kỷ sự, cảm hứng… với giọng thơ mộc mạc, chân phác như mùi hương thoảng qua thi phẩm:
![]() |
Vui xuân cảm tác
Yến hát oanh ca cảnh đẹp trời,
Mừng xuân muôn vật thảy đều vui.
Trà sen rượu cúc còn ngon ngọt,
Thịt mỡ dưa hành vẫn béo bùi.
Hòa xướng ông già trông thú vị,
Lượt là bạn trẻ ngó the gơi.
Bảy mươi tư tuổi xuân đầm ấm,
Ta nghĩ đời ta cũng nực cười.
H.V
(SH312/02-15)
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trích Tự truyện “Số phận không định trước”
Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.
NGÔ MINH
Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.
NGUYÊN HƯƠNG
Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.