Theo những cánh diều

09:14 29/03/2010
THANH TÙNGNhững dịp lễ hội, những chiều hè gió lộng và đẹp trời, trên bầu trời cố đô Huế rực rỡ đủ sắc màu của những cánh diều mượt mà trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ. Đặc sắc nhất thì diều đại bàng cứu công chua, diều bướm đốt pháo, diều Tôn Ngộ Không...

Nghệ nhân - Chủ nhiệm CLB Diều Huế Nguyễn Văn Bê - Ảnh: cand.com

Thật ít thấy loại hình thể thao văn hóa nào đặc sắc như diều Việt Nam . Từ trò chơi dân dã, thú vui của trẻ chăn trâu trên đồng nội diều đã trở thành trò chơi tao nhã, cao sáng của các bậc thức giả, quan lại quyền quý, và với cả vua chúa ở chốn kinh kỳ. Cũng nhờ vậy, từ con diều sáo vi vu sau lũy trẻ làng, nhờ bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ đầy sáng tạo con người ở đất thần kinh đã không ngừng cải tiến để cho bay cao, bay xa giữa bầu trời xanh nhiều mẫu diều mới, chủ yếu là mô phỏng các loài chim muông, phi cơ, hỏa tiễn. Để có những loại diều khác thường này chất liệu làm nên diều Huế cũng rất đặc biệt. Diều không phải dán bằng giấy như ngày trước mà thay bằng các loại vải thô, phết phủ màu sắc phù hợp với đặc trưng loài vật được mô phỏng.

Năm 1990, trong những ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh, lễ hội văn hóa thể thao kỉ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh ở TP Vinh và ở Làng Sen xứ Nghệ, những cánh diều Huế tung bay và thực sự đã làm đắm say lòng người. Từ trước ngày quê hương giải phóng cho đến bây giờ, các hội viên cao niên của câu lạc bộ diều Huế không còn nhớ là họ đã có bao nhiêu lần được trở thành khách quí của Ban tổ chức các ngày lễ lớn của nhiều địa phương, của quốc gia. Ông Nguyễn Văn Bê, chủ nhiệm CLB diều Huế, cho hay: gia đình anh em hội viên chúng tôi đa số là rất nghèo. Nếu không có nghề làm diều và chơi thả diều chắc chắn là không mấy ai được đi chơi xa. Những chuyến du lịch theo những cánh diều âu cũng là lẽ công bằng của tạo hóa, là phần thưởng cho sự đam mê nghệ thuật diều từ thuở thiếu thời của mỗi chúng tôi.

Nhờ kĩ năng, nghệ thuật làm diều và chơi diều các hội viên CLB diều Huế đã có mặt "trên từng cây số" của đất nước mến yêu. Họ đã đi biểu diễn thả diều khắp dải đất miền Trung, vào tận TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, ra đến Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cực bắc của tổ quốc. Và thật là bất ngờ, trong những năm vừa qua họ đã nhiều lần đưa diều Việt Nam ra phục vụ bạn bè ở nước ngoài. Họ đã có cơ may thực hiện những chuyến du lịch quốc tế dài ngày mà không phải mất tiền, ngược lại có chút đỉnh thu nhập để quà cáp cho thân nhân, bạn bè khi trở về nhà.

Diều Huế đi thi quốc tế - Ảnh: vietbao.vn


Chuyến đi thứ nhất của họ vào mùa hè 1994, ngoài hoạt động giao lưu họ đã đoạt được giải ba thi thả diều quốc tế ở Dieppe , nơi hò hẹn của những người say mê cuồng nhiệt chơi diều trên thế giới. Lần thứ hai chuyến đi kéo dài trong hai tháng 7,8/95 và hoạt động tại 3 trung tâm nghỉ hè của Công ty điện lực Pháp. Khác với lần thứ nhất là biểu diễn và thi thả diều, lần này ngoài phục vụ thả diều hai nghệ nhân Nguyễn Văn Bê và Nguyễn Văn Ry thiên về giới thiệu diều Huế và dạy cho trẻ em Pháp cách làm các loại diều, cách điều khiển diều. Trong các buổi liên hoan, gặp gỡ chia tay ở ba trung tâm nghỉ hè này khách du lịch đã rất cảm ơn tổ chức Codev và các nghệ nhân diều Huế đã cho họ một kỷ nghỉ hè thú vị, bổ ích chưa từng có trong cuộc đời. Báo Journiac đã đánh giá cuộc giao lưu này là "có màu sắc văn hóa và giáo dục cho tuổi trẻ", một hoạt động đã làm nức lòng người và "thu hút rất cả trẻ em đầu đường cuối phố". Chuyến thứ ba ông Nguyễn Văn Bê được mời đi dự liên hoan diều ở Thái Lan. Chuyến thứ tư ông Bê được Hội ái hưu người Việt ở đảo Réunion (Châu Phi) mời dự liên hoan diều tại thành phố Sainte Marie, một hoạt động chào mừng Hội nghị Thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp tại Hà Nội. Đảo Reunion có duyên nợ với lịch sử Việt Nam và với hai ông vua yêu nước cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Hai cha con cựu hoàng Thành Thái - Duy Tân bị lưu đày ở đây. Việt Kiều ở đây rất đông. Một bà là cháu nội vua Duy Tân đã giới thiệu với chính quyền và Hội ái hữu người Việt ở đảo mời ông Bê sang thả diều và giới thiệu diều Việt Nam với bạn bè châu Phi trong cộng đồng Pháp ngữ. 20 ngày ở đảo ông Bê đã tổ chức hai lớp dạy cách làm diều và thả diều cho hàng chục người, cả trẻ em lẫn người lớn. Ông được một số trường học mời đến giới thiệu về diều Việt Nam và được mời đi thả diều ở bốn quận của thành phố. Dân đảo Réunion vô cùng thích thú trò chơi thả diều. Họ mời ông Bê dự nhiều buổi sinh hoạt và dẫn ông đến thăm nhà ở của vua Duy Tân.

Từ những chuyến giao lưu thành công tốt đẹp của các nghệ nhân diều Huế, chúng tôi muốn nói một điều cuối cùng là vinh quang của họ không tự nhiên mà có. Nhưng ai gần gũi với các nghệ nhân diều mới thấy được rằng dấn thân vào thú vui chơi diều ngoài cái đam mê còn phải có cái vốn kiến thức tổng hợp. Làm ra con diều phải qua lắm khâu phức tạp, điều khiển được diều theo ý muốn lại càng đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật và nghệ thuật. Thả diều phải có người xem. Người xem thích thú chính là nguồn cổ vũ lớn nhất đối với người thả diều. Và cùng vì để làm hài lòng người xem người chơi diều phải không ngừng sáng tạo để thay đổi "mẫu mã". Người xem là "thị trường", là thước đo đánh giá chất lượng diêù và nghệ thuật chơi diều. Làm diều và thả diều là cả một nghệ thuật, một nghệ thuật đặc biệt hơn tất cả các loại hình nghệ thuật khác, bởi lẽ: Khi làm diều thì say mê, không còn biết những gì quanh mình. Và khi thả diều lên rồi thì cả con người mình như bay bỗng cùng diều... cùng muốn vẫy vùng trên bầu trời xanh lộng gió.

Mong sao diều Việt Nam , diều Huế mãi mãi bay cao bay xa trên bầu trời quê hương, bay bổng trong tấm lòng bạn bè gần xa.

TH.T
(134/04-00)




 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.