NGÔ MINH
Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.
Ảnh: internet
Cái hay ở đây trước hết là cái thật. Hải Kỳ đau thật, ghét thật, yêu thật. Cái thật của tâm trạng, tâm linh thi sĩ. Cái thật của một bản lĩnh thơ, của sự dấn thân trước cuộc đời. Văn chương nước ta hơn thập kỷ qua không thật mà chỉ là văn chương minh họa. Thơ lại càng tệ hại hơn - mang đầy sự giả! Điều đó đã được trao đổi, bàn bạc phanh phui rất nhiều. Từ khi có "đổi mới" đến nay, tức là trong khoảng mươi tháng lại đây, tình hình văn học mới bắt đầu "tìm lại mình". Thế mà tập thơ 33 bài của Hải Kỳ gồm những bài viết rải rác từ 1980 đến 1986 là thơ thật, như ta đang đòi hỏi. Thế mới biết anh là người sống không dễ, thơ không dễ:
Bao âm điệu vui buồn đời thực
Tất cả vào tôi và hóa thành thơ
Sống hết mình, tôi không làm kẻ khác
Tôi là tôi như thể tự ngày xưa
(Chuyện tình)
Hải Kỳ viết về mẹ, về Huế, về Đồng Hới của anh, về người yêu, bè bạn với tất cả sự nồng nhiệt, đam mê. Một trưa nồm Đồng Hới:
Chòng chành là giấc ban trưa
Lao xao sóng gợn lưa thưa nhịp chèo
Võng đưa ngọn gió nồm theo
Kéo lên cả nhịp thủy triều bao la
(Cho tôi ngọn gió đi tìm)
Một nỗi mong nhớ Huế:
Ai nhìn hóa vọng phu kia
Tôi nhìn cho đến đứt lìa chân mây
(Tôi nhìn cho đến)
Hải Kỳ rất lười chép thơ mình gửi đi in các báo như nhiều người vẫn làm. Thơ anh viết ra là để tặng - "Có em viết tặng bài thơ" - hoặc để giải tỏa cái chất chứa, bức bách của tâm hồn. Viết ra được là thích. Tặng được người cần tặng là thích. Vì không phải lúc nào cũng tặng được một cách êm thắm!
Tập thơ hay còn do cái tâm thơ mạnh. Hải Kỳ viết cái gì cũng là để bày tỏ mình - rứt thịt mình ra mà viết. Nhờ cái tâm thơ đó, anh rất nhạy cảm. Anh "nghe" được "mùi rong rêu của dòng sông học trò", "mùi sông biển mặn, ngẫm lời mẹ ru". Anh đau đớn khi đọc một thống kê ngắn của Liên hiệp quốc về trẻ con chết yểu trên thế giới:
Ôi, cái hành tinh chật chội thủ đô to
Dày phấn sáp, mang áo quần đúng mốt
Bom đạn như non, của tiền như nước
Mỗi trẻ nhỏ chết nghèo trong nháy mắt hai giây
(Hai giây)
Trong "Ngọn gió đi tìm". Các bài "với biển", "Giấc mơ", "Bông hồng vàng", "Từ biệt", "Nói với Huế", "Dạ khúc nô-en" v.v... là những bài thơ đẹp, Hải Kỳ có nhiều tứ thơ thông minh, tinh tế. Qua Đèo Hải Vân, nhớ điệu "Lý qua đèo" anh liên tưởng:
Để rồi trở về em
Nghìn năm sau vẫn thế
Núi đèo và điệu lý
Cũng chỉ vì nhau thôi
(Bất ngờ câu lý)
Anh "cảm" cái trắng của cát:
Trắng như là chẳng có gì
Trắng như là biển người đi không về
(Hạt cát)
Khi nhớ mẹ anh thấy "trời xanh kia như xanh vội theo ngày". Hải Kỳ có nhiều câu thơ tài hoa như thế. Thơ anh bao giờ cũng có một chút run rẩy, một nỗi xót xa nuối tiếc nào đó thật hấp dẫn. Thơ Hải Kỳ cấu tứ chắc, anh sử dụng rất thành công các thể thơ truyền thống như lục bát, năm chữ bảy chữ... nên thơ Hải kỳ dễ thuộc. Nhiều bạn trẻ ở Huế, Đồng Hới chép và thuộc thơ Hải Kỳ. Mùa hạ năm ngoái, một đêm trên đỉnh Tam Đảo, theo yêu cầu của nhà văn Đỗ Chu và các bạn viết văn khác, tôi đã giới thiệu thuộc lòng gần chục bài thơ Hải Kỳ.
Tất nhiên, tập thơ cũng còn những mặt chưa thỏa mãn bạn yêu thơ. Đọc Hải Kỳ rất dễ có cảm giác như đọc thơ tiền chiến, một cái gì đó trật tự, đều đều do anh ít sự phóng khoáng về nhịp điệu câu thơ. Anh có cái "tình" mạnh - một tâm hồn nhạy cảm, nhưng chưa được tập trung để tạo nên một "cá tính sáng tạo" rõ nét. Nói cách khác cái "đạo thơ" của anh chưa mạnh. Vì thế mà từng bài thơ như những chấm sáng lấp lánh nhưng chưa được hội tụ. Tôi muốn nói đến sự đậm đặc của "tình thơ" như là một định hướng triết học của tập thơ, cái tạo nên tầm cao và độ bền vững của các nhà thơ trong thời gian. Có thể yêu cầu đó là quá cao. Nhưng với tài năng Hải Kỳ tôi có quyền đòi hỏi và tin rằng Hải Kỳ sẽ làm được.
Huế 3-8-1988
N.M
(SH31/06-88)
--------------
(1) "Ngọn gió đi tìm" - Thơ Hải Kỳ, Hội văn nghệ Bình Trị Thiên, 1987
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?