Thế giới siêu thực trong thơ Ngô Kha

15:40 24/10/2011
TRẦN THỊ MỸ HIỀN Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.

Nhà thơ Ngô Kha - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Là một nhà giáo, một trí thức yêu nước, có những hoạt động nổi bật trong các phong trào của học sinh sinh viên miền Nam trước 1975 nhưng cho đến giờ, cuộc đời ông vẫn là một chuỗi những dang dở (chưa tìm thấy xác nhà thơ). Trong các tài liệu trước giờ, nhiều người vẫn thường nhắc đến Ngô Kha trong vai trò một trí thức yêu nước, một liệt sĩ và là một nhà thơ dấn thân. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi sẽ mở ra một khía cạnh khác trong thế giới nghệ thuật thơ Ngô Kha. Đó chính là thế giới siêu thực trong thơ của tác giả này.

Ngoài vai trò một thầy giáo, một người đấu tranh trong các phong trào yêu nước, Ngô Kha còn là nhà thơ có bút pháp độc đáo. Cho đến nay, khi nhìn lại toàn bộ sự nghiệp thơ ca, ta thấy Ngô Kha có một điểm vô cùng nổi bật, ông là một trong số ít những nhà thơ miền Nam lúc bấy giờ hòa nhập vào dòng thơ siêu thực. Các tác phẩm ấy tuy đương thời không được nói đến nhiều (vì lý do thời cuộc), nhưng có thể nói Hoa cô độc Ngụ ngôn của người đãng trí là hai tập thơ đáng nhớ nhất khi nhắc đến Ngô Kha. Ngoài ra, nhà thơ còn có Trường ca hòa bình và một số bài thơ khác in rải rác trên các tạp chí miền Nam.

Như đóa hoa nở giữa sa mạc, người trí thức Ngô Kha - thầy giáo dạy văn trường Quốc Học và các trường khác ở Huế ngày ấy đã tạo ra tiếng nói riêng trong các tập thơ của mình. Trong không khí ồn ào nóng bỏng của thời cuộc, năm 1961 Ngô Kha cho ra đời Hoa cô độc như bước đánh dấu cho sự nghiệp thơ ca. Hoa cô độc gồm các bài thơ như Đêm 30, Có gì đẹp hơn yêu em, Người con trai, Tiễn em, Ưu tư, Khúc ca tình yêu
(1)... Nó cho thấy trái tim tươi nguyên của chàng thanh niên còn nhiều hy vọng ở cuộc đời. Những vần thơ tuy có hơi hướng siêu thực nhưng vẫn còn đó cái trong sáng, nhẹ nhàng và hết lòng với cuộc sống. Như hạt giống ươm mầm, năm 1969 ông cho ra đời Ngụ ngôn của người đãng trí, dấu chấm lửng giữa cuộc đời. Tập thơ làm nên tên tuổi ông với tư cách nhà thơ ngoài vai trò người thầy giáo trong trường Quốc Học. Tìm đến thế giới siêu thực, Ngô Kha xem đó là cách thể nghiệm sự suy nghĩ, hòa trộn giữa thực và mộng, nhập vào thế giới mới hơn để tìm ra không gian riêng cho mình.

Mở đầu hành trình thơ ca với Hoa cô độc, tác giả đưa chúng ta vào một miền âm u, chật chội nhưng có khi cũng rộng đến vô cùng. Thế giới siêu thực dường như chỉ tồn tại hai miền sáng tối, nhưng nếu siêu thực của Hàn Mặc Tử là một thế giới toàn năng bởi ánh trăng, cái trăng sáng ngời, cái trăng nhập nhoạng và mờ ảo thì thế giới của Ngô Kha lại bao trùm bởi bóng tối, bóng tối của hư vô, trường cửu như cái đại lộ thăm thẳm của cuộc đời. Đại lộ ấy giống như một dòng sông đêm trải dài muôn nẻo, mang đến bao nhiêu đau thương cuồng nộ, tăm tối, hoang rợ. Dòng sông đêm rồi sẽ mang ta về đâu - một bến bờ vô định không tìm ra nẻo tới trong chuyến hành trình? Thế giới mà Hoa cô độc mang đến chất đầy những bóng đêm, một loại chất đậm đặc không tách chiết ra được như từng hạt sát na của vũ trụ - một vũ trụ nguyên sơ mới tạo hình! Ở đó bóng tối bao trùm như chúa tể vạn năng làm vầng mặt trời cũng méo mó, đớn đau, tan vỡ:

“đại lộ dòng sông đêm/ mặt trời vô hình tan vỡ/ suối đau thương đường phố/ nhớ nhung bơ vơ…”
(Đêm 30).

“mưa điên cuồng gió loạn/ bóng đen làm mặt trời”
(Bài thơ hôm nay).

Bản thảo cuộc đời, bản thảo địa đàng vẫn mãi hoang vu, nguyên sơ, trinh bạch. Ở đó cũng có cuộc sống nhưng thấp thoáng bóng hình của con người thuộc hai thế giới đối lập nhau: hoặc rất ngây thơ trong trẻo, hoặc rất khổ đau, tang thương và hoang dã… Thế giới ấy có những mảng đối lập vô cùng lạ lẫm, mọi vật như có linh hồn và thức tỉnh rất tinh khôi. Thực và mộng, thiên đàng và hạ giới, lịch sử và tương lai trong phút chốc nhập thành một:

“Ta đã từ quê hương xa lắm/ Như vị thần lạc nẻo trời cao/ Quay về đây tinh tú hôm nào/ Từ vô cực trở về hạ giới/ …/ Trời thủy tinh đổ vỡ tan tành/ Muôn ánh mắt tìm về vực thẳm”
(Ưu tư).

Giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn có chỗ cho những khoảng âm u, mờ nhạt, nhưng chút ánh sáng le lói không đủ sức để thắp sáng một linh hồn, không thể làm tan hết bóng đêm nặng trịch và tàn nhẫn kia. Người con trai thấy mình lạc vào một cõi nào xa lắm, anh chìm vào giấc ngủ vạn kỷ để rồi khi tỉnh dậy cũng chỉ thấy hoang liêu, ngơ ngác trước cuộc đời. Và trong cuộc hành trình ấy, anh vẫn đi tìm em như khát khao tìm thấy chút ánh sáng mong xua đuổi bóng đêm trong tâm hồn. Còn gì cô đơn hơn sự hoang liêu của chính tâm hồn mình? Cái hồn của cảnh nhập vào cái tình của người càng làm cho nỗi hoang liêu càng thêm xa vắng:

“Bàn tay tâm sự bỗng thấy hoang liêu/ Rừng cây sâu thêm đau niềm căm tức/ Lưng trời phiêu bạt thơ thẩn về đâu/ Sương rơi trên đầu ướt triền má em/ Tâm tình dứt, khúc nhạc cũng buồn nôn/ Bâng khuâng ga nhỏ tàu cũng đi luôn/ Bầu trời cô đơn buồn dâng kín lối”
(Tiễn em).

Thế giới ấy thẳm sâu vô cùng, khó ai nhìn thấy nếu không co thắt hết biên độ của sự nhạy cảm. Ngô Kha là người đã làm được điều đó. Với một con người khi sinh ra trên đời vốn dĩ đã rất cô đơn, thì còn gì cô đơn hơn là cái chết - tận cùng của niềm đơn độc. Thế nên tìm đến với cô đơn là tìm về với bản thể của chính mình. Bởi tự mệnh danh là Hoa cô độc nên trong thơ ông xuất hiện rất nhiều nỗi ám ảnh về cái chết và sự cô độc. Người đọc sẽ không khỏi ám ảnh khi bắt gặp những từ như mồ bia, điếu văn, linh hồn, vành khăn tang, mồ rêu cỏ mọc, băng hà, mồ hoang, chết, hỏa ngục… Phải chăng chính tâm thức đặc biệt đó mà đôi khi trong các bài thơ tác giả đã nhìn thấy được trước cái chết của mình?

Ngoài cảm thức đặc biệt về thế giới, nguyên nhân thứ hai khiến hồn thơ thi sĩ phát tiết tinh hoa phải chăng là vết thương không bao giờ liền sẹo. Nó có tác động rất lớn tới tâm hồn, là mạch dẫn vô tận đến suối nguồn của vô thức, trong cái thẳm sâu của con người. Ai đó đã nói rằng, khi yêu người ta như được trở về với cội nguồn của mình. Bởi nhìn đâu họ cũng thấy đẹp, thấy yêu thương và gắn bó với mọi người, sẽ không có cảm giác cô độc. Có lẽ vì thế mà khi thất tình con người có cảm giác mình đang bị bứt ra khỏi nguồn cội chăng? Họ luôn thấy bơ vơ, lạc vào một cõi vô hình nào xa xôi lắm. Đó phải chăng là thế giới thẳm sâu trong mỗi chúng ta?

phượng cầu hoàng/ héo hắt chờ đợi/ dù phượng hoàng chúa tể chim trời/ yêu tiếng nói tuyệt vời/ anh còn yêu em mãi…” (Có gì đẹp hơn yêu em).

Thế giới tình yêu trong thơ ông mới đẹp đẽ, thanh khiết làm sao, như huyền thoại, tình yêu vốn gắn liền với thế giới tuyệt đẹp mang sắc thái thượng giới. Đó là đỉnh cao của mơ ước nhưng rồi ngay sau đó lại phải đối mặt với một thực tế phũ phàng. Kẻ thất tình như lạc vào mê cung tình yêu không tìm thấy lối ra bởi bóng tối của hoang liêu và ngờ vực:

“em bỏ ra đi/ những ngọn đèn tím đỏ/ viễn phương còn là thành phố…/ nếu được gần em/ chỉ cần một âm giai/ thì chúng ta đâu còn đơn lẻ”
(Người con trai).

Con đường yêu đương giờ biến thành bức họa đồ quanh co, không còn tìm thấy lối ra. Người con trai ấy chếnh choáng, cô đơn, khô gầy không còn chút niềm tin. Anh với tay hái lấy vầng trăng ngày ấy, vầng trăng anh từng tôn vinh và thèm khát ném xuống giữa cuộc đời. Khi choàng tỉnh khỏi cơn mơ, tất cả chỉ còn là niềm cô độc. Phải chăng đó chính là tâm thức chung vốn tồn tại trong mỗi chúng ta khi đến với cuộc đời này?

Cuộc hành trình trong miền tâm thức ấy tuy chưa thật sự về đến đích nhưng cũng để lại sức lay động rất lớn, tạo ra nhiều ám ảnh, dư ba. Về thế giới thơ trong Hoa cô độc, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng có nhận xét: “Những năm đầu thập kỷ 60 ấy, ngày tháng sao như dài hơn và Ngô Kha đã rong chơi khắp miền để kết bạn phong trần với loài phù du để rồi trở về ngồi nhìn cái bóng đơn chiếc của mình đổ dài trên đất rừng trơ hốc đá, nơi một sườn đồi hoàng hôn trên sông Hương… Cái nhìn chính mình, Ngô Kha đã bắt gặp trên cánh đồng hắt hiu của linh hồn chàng một loài ác hoa mọc lên từ bao giờ. Chàng âu yếm gọi nó là “Hoa cô độc”. Hành trình của chàng khởi đầu với niềm kiêu hãnh thầm kín của bông hoa ấy”
(2).

Sang Ngụ ngôn của người đãng trí tác giả lại đưa chúng ta vào một miền siêu thực khác. Đó không còn là thế giới âm u tăm tối mà là cái mơ hồ, vô định trong thế giới tâm thức của một người đãng trí. Không thực sự âm u nhưng cũng không hoàn toàn sáng sủa, nó mang mang một cái gì khó tả như sự hòa trộn giữa thực và mộng. Tập thơ cho thấy sự vượt bậc về bút pháp siêu thực của Ngô Kha trong toàn bộ các sáng tác của mình. Nếu Hoa cô độc tạo nên một thế giới siêu thực trong tâm trạng, “bản tốc ký tâm trạng trên bản thảo cuộc đời” không có dấu vết của sự bôi xóa thì đến Ngụ ngôn của người đãng trí, thế giới siêu thực không đơn giản chỉ tồn tại trong nội tâm mà tuôn chảy từ dòng ý thức của một kẻ đãng trí. Nếu Hoa cô độc siêu thực bằng những hình ảnh nhẹ nhàng, những cung bậc cảm xúc trải đều trong tâm thức thì Ngụ ngôn của người đãng trí là bản phối lạ với những hình ảnh, những mảng màu bất chợt rời rã nhưng lại được liên kết với nhau một cách tự nhiên trong cùng một mạch liên tưởng. Ta như lạc vào một miền đất lạ, một thế giới hoang sơ với những con người vô tư, say rượu, những kẻ hành khất… Phải chăng đó là chốn trú ngụ bình yên, sẽ không có lý trí nào có thể điều khiển được họ, tất cả đều là ngẫu nhiên. Nếu ai đó nói rằng “thơ Ngô Kha là một nỗi cô đơn trên cuộc hành trình dằng dặc đi tìm chính mình
(3) thì Ngụ ngôn của người đãng trí là một chặng dài trên nẻo đường thiên lý ấy.

Vì là thế giới trong tâm thức của người đãng trí nên không có gì là cố định và cụ thể. Ta có cảm giác đang xem một thước phim bị mắc lỗi kỹ thuật không liền mạch, luôn có những chắp nối, chồng chéo lên nhau. Các hình ảnh liên tục chạy ra theo dòng tâm thức của người đãng trí. Chỉ với chương một của trường ca mà có tới hai mươi lần cụm từ “kẻ đãng trí” xuất hiện. Những khoảng lặp rất tình cờ nhưng rất đúng với dòng ký ức ấy. Nó loạn nhịp, lộn xộn không theo một trật tự nào. Người đọc như đang đọc một bài diễn văn dài được viết bởi một nhân vật “đặc biệt” có tâm tư “không mạch lạc”. Thế giới tinh thần của “người đãng trí” thật tinh khôi, hoang sơ và hồn nhiên đến vậy. Ta như lạc vào một thế giới xa xăm của loài người thuở hồng hoang nguyên thủy - thiên nhiên cảnh vật đều hoang sơ như chưa từng có bàn tay tạo dựng của con người:

“khúc hát ngu ngơ của bông lau/ tháng giêng giã từ thuốc đắng đi tìm cỏ may/ tôi không thấy nàng mặc áo chim/ chỉ có người hư vô và mặt trời/ tôi đếm dấu chân nai trên bản chúc thư tình yêu/ có những con đường mang tên em chưa ra đời/ những con đường mọc đầy cây ma túy…”
(Ngụ ngôn của người đãng trí).

Thế giới ngụ ngôn là thế giới siêu thực bắt đầu bằng chiêm cảm. Điều khiến ta chú ý trong thế giới này là dường như tất cả mọi vật, từ cỏ cây đến vũ trụ, đến những sinh thể nhỏ bé nhất đều có linh hồn, đều mang theo hơi thở hồn nhiên nguyên sơ nhất của vũ trụ. “Khúc hát ngu ngơ của cây bông lau”, rồi “tháng giêng giã từ… đi tìm cỏ may”… nghe sao mà thân thương, trong trẻo và bình yên đến lạ.

“người say rượu quỳ bên gốc cây già/ uống ánh mặt trời và dòng phù sinh vô tận”
(Ngụ ngôn của người đãng trí).

Con người trong thế giới ấy bỗng chốc trở nên thật kỳ vĩ, hòa nhập vào thiên nhiên, vũ trụ một cách tuyệt đối. Nó gợi cho ta sự hình dung về một thế giới siêu nhiên, ở đó con người giống như những thiên thần, thật lung linh huyền ảo. Dấu ấn đó còn hiện lên rõ ràng hơn qua những câu thơ:

“sau tàng cây khổ hạnh người say rượu lõa thể như một chiếc lá sen/ đứa con trai thì mọc đầy lông vũ…”


Đây đúng là thời hồng hoang nguyên thủy của loài người, tất cả mang màu sắc tự nhiên, thanh khiết. Nhưng thế giới ấy vẫn tiềm ẩn sự đối lập. Đó là sự đối lập giữa thực và mộng, giữa cái thanh khiết và cái dữ dội. Có những hình ảnh gợi lên cho ta sự rùng rợn không thành cụ thể nhưng khó thể nào quên:

“mùa hè có tuyết đen thật đẹp/…/ tôi một mình với cơn cuồng nộ của mùa hè/ đà điểu cắp cánh tay người yêu tôi đi/ chiếc nhẫn cưới bay mất/ tôi không còn cuộc hôn nhân kỳ dị/ người con gái đâm mù mắt tôi/ bằng hai quả trứng vàng…”


Tác giả như đang dẫn ta vào trong một giấc mơ dài, đi hết miền đất này qua vùng sa mạc khác, càng đi càng rùng rợn, càng rời xa thế giới của hư vô nguyên sơ ngày nào.

Ngụ ngôn của người đãng trí
mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực, như tiếng thét dữ dội, mãnh liệt của con người trước khi từ bỏ một cái gì đó, giống như tiếng hót cuối cùng của con chim sắp từ giã cõi đời. Nó vươn cổ, trút hết sinh lực và để lại tiếng ca cho đời thêm tươi đẹp. Cùng cảm nhận đó, ta thấy Ngô Kha đã đạt được thành công nhất định khi ra mắt tập thơ này. Có lúc ta thấy tác giả thoát ra khỏi vùng trời siêu thực trở lại thực tế đớn đau của tâm hồn, một tâm hồn rách nát bởi vết thương tình chưa liền sẹo, cộng thêm hiện thực đau khổ khốc liệt của cuộc chiến bên ngoài. Điều đó tạo nên một sự thôi thúc vượt thoát khỏi lý trí, giống như những chiếc đập nhỏ ngăn cản dòng nước đang êm đềm, tạo nên sự mãnh liệt cho dòng thác nội tâm tuôn chảy. Người đọc có thể thấy rõ điều đó trong suốt các chương của cuộc hành trình đi trong vô thức. Cứ sau mỗi chương đoạn có sự xen kẽ những dấu hiệu của thực tại thì ngay sau đó những cung bậc của nội tâm ngày càng thêm dữ dội - một thủ pháp tâm lý hết sức tự nhiên và mang lại hiệu quả nghệ thuật đặc sắc.

Thế giới trong Ngụ ngôn của người đãng trí là thế giới của mộng, của chiêm bao, và hơn cả, nó được khúc xạ qua tầng vô thức của một kẻ đãng trí nên hư vô càng tiếp hư vô, siêu thực lại càng trở về siêu thực. Đó là một giấc mơ dài đi từ ngày này qua ngày khác, dẫn ta từ cõi trời này đến cõi trời khác. Và nói như Freud, giấc mơ luôn bị điều phối bởi vô thức, nó là tầng lớp sâu nhất trong tâm thức mỗi chúng ta. Với Ngụ ngôn của người đãng trí, Ngô Kha bị điều khiển bởi phần vô thức ấy nên mạch cảm xúc cứ tuôn trào. Tất cả những gì của thực tại đều mang bóng dáng của giấc mơ và chìm sâu vào ký ức. Đến lúc tuôn ra giống như suối nguồn vô tận không có mãnh lực nào có thể ngăn cản nổi. Về ý này ta thấy Ngô Kha có một ý thơ giống Hàn Mặc Tử: “tôi hay nói chuyện về những dòng chữ ngụ ngôn/ những dòng chữ chảy từng hàng não sống/ trên chiếc máy in hùng hồn của thác nước/ những dòng chữ khai sinh..” Các nhà thơ siêu thực thường hay nói về những con chữ của mình như thế. Hàn từng viết: “Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/ Mỗi lời thơ đều dính não cân ta/ Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/ Như mê man chết điếng cả làn da” (Rướm máu).

Cái hàng não sống ấy chính là máu, là hồn, là tinh lực của thi nhân truyền vào mỗi vần thơ của mình. Họ sáng tác trong những trạng thái xuất thần, hoàn toàn vượt thoát khỏi lý trí và sự kiểm soát của cảm xúc. Đến đây ta lại nhớ đến Tinh huyết của Bích Khê, cũng là một trong những cây bút siêu thực xuất hiện trong thi đàn Thơ Mới lúc bấy giờ. Cả Bích Khê, Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử cùng nằm trong Trường thơ Loạn. “Loạn” ở đây không giống như sự nổi loạn thông thường mà “loạn” trong chính cái thế giới của họ, thế giới của tâm thức và tiềm thức. Thơ xưa nay sáng tác dựa trên các kỹ thuật câu cú thì đến bây giờ cái “loạn” ấy lại đề cao yếu tố tự động, viết như dòng thác ký ức đang tuôn chảy dạt dào. Đó giống như một quá trình thoát thai đau đớn và dữ dội những hình ảnh vốn nằm sâu trong vô thức của mình. Chính vì thế nếu Hàn Mặc Tử ngày xưa thoát lên “thượng tầng thanh khí” thì Ngô Kha không nói ông đang ở chỗ nào, chỉ biết thế giới trong thơ ông đã “nằm ngoài vùng phán xét của con người”, nghĩa là không ai có thể lấy kinh nghiệm bản thân để hiểu và phán xét nó. Xưa kia Hàn Mặc Tử có Thơ điên thì Ngô Kha ngày nay có Ngụ ngôn của người đãng trí. Tuy cùng nằm trong cùng một trường nghĩa là đánh mất lý trí nhưng chính cái đãng trí đó mới thật sự là Ngô Kha. Nghĩa là ông không hoàn toàn mất trí, không “điên”, mà đãng trí là một trạng thái của tinh thần trong một giai đoạn nào đó của con người. Đãng trí nên có sự nhập nhằng giữa mơ và thực, giữa thiên đàng và hạ giới… Và đó chính là nguyên nhân và cũng là bước đệm cho những chuyển biến trong thơ Ngô Kha trong những tập sau này.

T.T.M.H
 
(272/10-11)


-----------------------------
1. Theo nhóm sưu tầm của quyển “Ngô Kha - ngụ ngôn của một thế hệ”, tập thơ gồm 18 bài.
2. Võ Quê, Thi sĩ Ngô Kha - trung thực một đời thơ, trong Ngô Kha - Ngụ ngôn của một thế hệ (2005), Nxb Thuận Hóa, tr 243.
3. Ngô Minh, Ngô Kha - một cõi tang bồng, trong Ngô Kha - Ngụ ngôn của một thế hệ (2005), Nxb Thuận Hóa, tr 285.







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)

  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ