UYÊN PHƯƠNG
Bạn đang sống ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm cổ kính hay giữa Sài Gòn hoa lệ vàng rực ánh nắng hoặc giả có thể ở bất cứ thành phố náo nhiệt nào trên đất nước Việt Nam? Bạn đang hòa mình vào nhịp sống đô thị với đầy ắp sự văn minh, hiện đại nhưng cũng khá ồn ào và bụi bặm, thậm chí có lúc bạn cảm thấy chán nản muốn rời xa sự xô bồ và ngột ngạt của chúng?... Vào lúc ấy, chắc hẳn bạn sẽ rất vui nếu được đi đâu đó vài ngày… Cảm giác khi tạm rời xa nơi thành phố cũng rất tuyệt”.
Những lời thưa trước trong một câu chuyện của cuốn tùy bút “Khi bạn xa thành phố” (Nxb. Hội Nhà văn, 2014) trích ở trên, đủ để chúng ta tò mò theo những bước chân của tác giả - nhà thơ Phạm Thị Phương Thảo. Có thể nói đây là cuốn sách của rộn rã bước chân đi, những náo nức hồn nhiên về những câu chuyện như thể được tranh nhau kể ra, nếu không thì sẽ biến mất như làn sương mỏng hay ánh nắng đã xuống bên kia đèo mà câu chuyện chưa kể hết.
Khi bạn xa thành phố, bạn sẽ thấy gì, sẽ gặp gì, cảm nhận những gì? 37 câu chuyện từ nhiều nơi khác nhau trên đất nước Việt Nam là đủ hay chưa? Có thể với ai đó khó tính là chưa đủ, nhưng những gì có thể cảm nhận là thật vi tế, thật sự rung động, khó quên.
Đó có thể là “Sa Pa - hương sắc bốn mùa”, mà “Mỗi một ngày của Sa Pa mang sắc thái đủ cả bốn mùa. Buổi sáng và chiều là cái mát lạnh của mùa xuân và mùa thu, còn buổi trưa với ánh nắng như mùa hạ nhưng vẫn khá dễ chịu, còn đêm xuống là cái lạnh mùa đông”. Và có thể bắt gặp ở đó sự dịu dàng: “Mùi khói quyện với mùi rơm và hương lúa chín… ở đây chúng dịu dàng quá, làm tôi liên tưởng đến làn tóc mềm mại của những thiếu nữ được thả bên dòng suối”…
Đó có thể là “Náo nức chợ tình Châu Mộc”: “Dạt ra những con đường bên rìa núi, người đi hội cũng vắng dần khi đêm xuống. Thấp thoáng những cặp uyên ương mải trao tình bên núi… Đẹp lắm những bàn tay nắm bàn tay, những anh mắt trao gửi ánh mắt, những bước chân xoắn xít bước chân. Còn những cuộc hẹn hò tình tứ nơi Châu Mộc say đắm như thế nào nơi hẻm núi thì chỉ có núi cao đứng lặng im thở dài đầy tiếc nuối và suối nguồn ngân lên róc rách mà thôi”…
Đó có thể là rừng “Cúc Phương mùa này lắm bướm”: “Khu rừng nhiệt đới này vốn yên ả bỗng dưng trở nên sống động và nao nức một cách lạ lùng. Nhờ có lũ bướm rừng lả lơi ấy mà những ánh nắng xiên qua kẻ lá cũng thích thú nhảy nhót và trở nên biết reo vui”.
Sau khi rong ruổi qua những mỏm đèo dốc đá núi cheo leo, chúng ta có thể về biển khơi. Đó có thể là “Đến Phú Yên thăm ghềnh Đá Đĩa”: “Bạn sẽ bị bất ngờ bởi vô vàn những khối đá giống như những chiếc đĩa hình lục lăng được xếp chồng lên nhau theo từng hàng, từng lớp… Buổi sáng khi bình minh lên, những khối đá đen, đá nâu được nhuộm vàng và ánh lên rực rỡ. Còn khi chiều xuống, chúng lại phản chiếu những ráng đỏ hoàng hôn trên mình thành những ánh tím liêu tải và bí ẩn”.
Hay xuống một làng biển dự “Hội làng Du, Thủy Nguyên, Hải Phòng”, và bắt gặp những con người với những triết lý sống thật bình dị: “Họ chờ đợi và háo hức đón chờ ngày hội làng trong những ngày đầu xuân nơi đất trời mưa phùn đầy ẩm ướt. Họ vui thích khi được tham gia vào lễ cầu an và chân bước thung thăng trong đoàn rước tàu thuyền để ra tận bến sông của làng mình. Có lẽ những cụ già đã gắn bó tâm huyết với xóm làng suốt cả cuộc đời cùng dòng họ và những thú vui đơn sơ thì với họ, sẽ chẳng đâu bằng cái làng quê của mình, dâu cho cuộc sống có nghèo khó đến đâu”.
Bước chân chưa dừng lại, một hôm nào đó, rong ruổi phương Nam và bắt gặp “Mưa Gài Gòn nhớ vàng ruộm bánh xèo”: “Món bánh xèo khi ăn không thể thiếu rau xanh ăn kèm giống như tình yêu của nàng luôn dính liền với chàng vậy. Bởi nếu thiếu chàng rau xanh thì nàng bánh xèo cũng trở nên… kỳ cục hết sức…”.
Và Huế, ngẫu nhiên được nhắc đến với những hội ngộ thi vị. “Sông Hương hóa rượu ta đến uống” là một góc nhìn bao quát sử thi dòng sống, các vỉa tầng văn hóa của xứ sở và con người, cả Tạp chí Sông Hương “đã bước sang tuổi ba mươi với một vóc dáng và tâm thế đáng nể”… Và “Gác Trịnh - lung linh nắng thủy tinh vàng”: “Ngồi nơi Gác Trịnh để nhìn xuống đường thật thú vị. Dẫu dòng người có tất tả ngược xuôi hay lặng lẽ qua lại ở bên dưới thì nhịp sống nơi đây vẫn lãng mạn bởi con đường in đầy bóng lá và màu xanh nõn nà của loài cây long não vẫn ánh lên trong đốm nắng. Trong cõi dịu dàng và trầm tư ấy, chắc hẳn là nơi khơi nguồn để Trịnh Công Sơn viết nên nhiều ca khúc để đời về tình yêu và cuộc sống, về cõi người trầm luân với cả niềm hạnh phúc lẫn khổ đau”…
Và điều đọng lại nữa, là khi thắp nén nhang tưởng niệm trên “Nghĩa trang Trường Sơn mùa bàng lá đỏ”: “Giữa khu mộ liệt sĩ nằm bốn bề dăng dăng, cây bàng mùa thu vẫn đỏ ối sắc lá và ngời lên trong nắng những ánh vàng chen lẫn ánh nâu đượm màu cổ tích. Ta chợt nhận ra một vẻ đẹp kiêu sa và lộng lẫy của mùa thu và nỗi buồn đau về sự mất mát và nỗi buồn nhân thế chợt dâng dâng trong lòng…”.
Tập tùy bút đã khởi đi từ những cảm nhận nồng nàn, những câu chữ trong veo, những biểu lộ ngôn ngữ bình dị mà thanh khiết. Điều thú vị là không ít những thoáng nghịch ngợm mỉm cười kiểu dân gian hóm hĩnh đã kịp chen vào giữa xô bồ đi, ngắm, thưởng thức… trong suốt hành trình.
Từ những câu thơ như “Ơi vầng trăng khuyết/ mỏng cong kiếp người” cho đến tùy bút là những cuộc chiêm nghiệm của nhà thơ phơi bày trên trang giấy, qua những đoàn tàu chữ nghĩa nối nhau đi.
Đây là tập văn xuôi thứ hai của Phạm Thị Phương Thảo, sau tập tản văn “Hà Nội dấu yêu” (Nxb. Hội Nhà văn, 2013); và là cuốn sách thứ bảy, sau 5 tập thơ đã xuất bản: Dòng sông khát vọng (2010), Hoa nắng (2011), Trao em mùa hạ (2012), Khúc ru nơi lưng núi (2012), Mắt sóng (2013). Nữ thi sĩ hiện đang là chiếc cầu nối của Tạp chí Sông Hương với bạn đọc và cộng tác viên ở miền Bắc. Xin chúc chị tiếp tục lên đường “giản dị, hồn nhiên, cứ long lanh tỏa sáng giữa một vùng trời nước và biển khơi”…
U.P
(SDB14/09-14)
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)