Thành phố di sản và vấn đề đặt ra với kiến trúc Huế

09:34 28/05/2009
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

ĐỊNH HƯỚNG HUẾ CHO NĂM 2020

Đặc thù của Huế là tổng thể các di tích tồn tại trong lòng đô thị mới. Cố đô  chung sống với thành phố đang phát triển. Để xứng đáng với vị trí của thành phố cấp quốc gia có di sản quý giá của nhân loại, định hướng phát triển đô thị Huế được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đến năm 2020 đã xác định: bảo tồn nâng cao giá trị của quần thể di tích Huế trong môi trường thiên nhiên bền vững, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển, bảo tồn và kết hợp hài hoà của một Cố đô lịch sử, giữ cho được một thành phố vừa cổ kính vừa hiện đại; kết hợp chặt chẽ việc cải tạo đô thị và trùng tu khôi phục các di sản kiến trúc, văn hoá lịch sử của dân tộc, bảo vệ và cải thiện cảnh quan thiên nhiên, tạo được bản sắc kiến trúc độc đáo.

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO KIẾN TRÚC HUẾ

- Thách thức lớn nhất là sự đô thị hoá khó kiểm soát được ở khu vực Kinh thành. Tại đây có 7 phường ở trong và bao bọc bên ngoài với gần 8,5 vạn dân. Có trên 2800 hộ dân ở trong khu vực I của di tích. Một số di tích bị biến đổi chức năng và đất đai bị chiếm dụng. Nền kinh tế thị trường, sản xuất nhỏ đang làm nát vụn các khu vườn với hàng loạt nhà hộp bêtông cốt thép, màu sắc chói chang. Dân cư tăng kéo theo các công trình dịch vụ, phúc lợi được đầu tư nhiều, làm cho mật độ xây dựng trở nên quá lớn; không gian xanh của các khu vườn, hàng chục hồ nước bị xâm lấn; môi trường nước, chất thải rắn đang là vấn đề bức xúc.

- Công tác quy hoạch hiện nay của Huế làm được chưa nhiều, nhưng cũng không ít. Ngoài quy hoạch tổng thể, ½ diện tích thành phố đã có quy hoạch chi tiết, nhưng khi triển khai dự án cụ thể cứ thấy “thiếu”. Giữa thực tế của yêu cầu cuộc sống và đồ án quy hoạch còn một khoảng cách không  nhỏ.

Người trước đã quy hoạch Huế theo những quan niệm triết học phương Đông, xây dựng nên một tổng thể kiến trúc có giá trị cao, khai thác tốt thiên nhiên; nhưng không ít quy hoạch xây dựng hiện nay của các khu đô thị mới cứ thấy hao hao nhau. Phải chăng đó là sự thiếu bản sắc.

Việc tổ chức không gian tận dụng được đặc thù của thế sông, thế núi, điều kiện thời tiết khí hậu của từng địa phương mới tạo nên bản sắc riêng. Nếu Huế đánh mất sông Hương, đánh mất vùng núi Tây Nam thì chắc không còn là Huế nữa. Sông Hương là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong tổng thể thành phố, nó góp phần tạo ra bản sắc Huế, là không gian chuyển tiếp giữa khu Kinh thành và khu đô thị phát triển sau nầy. Vì vậy, việc chậm trễ trong quy hoạch sẽ ảnh hưởng tới việc xây dựng và quản lý.

- Một đặc thù của kiến trúc Huế là rất quan tâm kiến trúc ngoại thất. Hầu như mọi công trình đều có sân vườn, có khoảng lùi so với đường phố, vừa tạo được không gian tĩnh, vừa có cây xanh bóng mát, trong vườn của các ngôi nhà ở còn có non bộ bình phong... Hiện nay không ít những khoảng lùi đó đang được chuyển hoá thành các kiốt kinh doanh, có vườn được cắt thành nhiều mảnh.

- Ở phía Nam sông Hương còn tồn tại một quần thể kiến trúc được xây dựng thời Pháp thuộc. Theo điều tra ban đầu có khoảng 240 công trình với nhiều loại hình khá phong phú, phần lớn là công sở, trường học, nhà ở. Khi quy hoạch và xây dựng khu phía Nam, các kiến trúc sư Pháp đã tôn trọng vẻ đẹp của con sông Hương nói riêng và tổng thể kiến trúc Kinh đô Huế nói chung.

Các công trình kiến trúc Pháp đã có tuổi thọ từ 80 đến 100 năm, nhiều nhà đã rệu rã, một số nhà đã sụp đổ, không ít công trình đã thay hình đổi dạng bởi nhiều lý do... Dư luận xã hội cũng đã lên tiếng khá gay gắt. Hiện chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện về giá trị kiến trúc thời Pháp thuộc. Nếu không có một cách nhìn khoa học sẽ có những thái độ trái ngược nhau. Hoặc là chúng ta mất đi một “dòng’ kiến trúc quan trọng trong suốt 100 năm lịch sử, ngược lại, phải giữ những cái cũ khi nó vừa không có giá trị gì lớn lắm lại vừa hết tuổi thọ... Nếu việc khảo sát, đánh giá chậm trễ thì khu phố Tây nầy sẽ không còn nữa.

- Không gian bảo tồn thiên nhiên phía Tây Nam thành phố, nơi tập trung quần thể kiến trúc lăng tẩm chùa chiền đang có nguy cơ bị xâm hại. Do nằm ngoài địa giới hành chính thành phố, một phần do công tác quản lý còn lỏng lẻo, ở đây hiện tượng mua bán đất tuỳ tiện, xây cất không giấy phép, kiến trúc tự do, lăng mộ xuất hiện ngày càng nhiều.

- Chính sách đất ở cần được thiết lập phù hợp với đặc thù cho từng địa phương. Nếu chỉ tiêu đất ở như hiện nay thì không bao lâu nữa không còn các khu nhà vườn. Kiến trúc nhà ở như thế nào? Nhất là nhà ở dân tự xây, hiện không quản lý được. Từ trước tới nay chủ yếu là phân lô. Cách làm đó vừa lãng phí quỹ đất vừa không tạo dựng được bộ mặt kiến trúc. Phân lô lớn để mật độ thấp thì khả năng kinh tế của người dân không có, xây dựng chung cư thì liệu có hợp với Huế không? Tốc độ đô thị hoá nhanh, quỹ đất có hạn, không thể không tính đến chung cư cao tầng nhưng kiến trúc chung cư như thế nào cho thích hợp là điều đáng quan tâm.

Nhu cầu về nhà ở ngày một tăng với tốc độ ngày càng lớn, kéo theo là dịch vụ, du lịch ngày một gia tăng đang có nguy cơ làm mất đi những ngôi nhà rường truyền thống, những khu vườn tiêu biểu, nhiều vườn đẹp đã bị chia nhỏ thành những nhà “hình ống hiện đại”; mật độ cây xanh giảm xuống; phần lớn biệt thự bị biến dạng bởi nhiều chủ ở cùng trong một nhà, đến khi hoá giá thì mỗi chủ cải tạo một kiểu khác nhau. Môi trường cảnh quan có khu vực trở nên nhức nhối: khu vực sông và sau chợ Đông Ba, dọc đường Kim Long các “phố” nhà “cọc” sát Kinh thành ngày một dài; khu vực Tam Thai, Ngự Bình, núi Bân “ngút ngàn” mồ mả...

- Quy định cấp phép xây dựng như hiện nay (Thông tư liên bộ số 09/LB của Bộ Xây dựng và Tổng cục Địa chính) không yêu cầu người thiết kế nhà phải có chuyên môn, không cần tư cách pháp nhân, gia chủ tự chịu trách nhiệm sẽ dẫn đến tình hình  không quản lý được kiến trúc đối với nhà dưới 200 m2, 03 tầng. Quy định nầy đẻ ra một loạt nhà ở xấu rải khắp thành phố.

Trong cơn lốc đô thị hoá hiện nay, nếu kiến trúc không được quản lý chặt chẽ, bộ mặt thành phố nhanh chóng trở nên lộn xộn, xây dựng nhiều nhưng không có kiến trúc.

Thời gian qua có hiện tượng trái ngược nhau trong kiến trúc:

+ Sự sơ lược trong hoàn thiện công trình cả bên trong lẫn bên ngoài làm cho công trình thô, đơn điệu. Hiện tượng nầy thường xẩy ra ở những thập niên trước do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân kinh tế và tay nghề người thiết kế. Thời gian gần đây được khắc phục nhiều.

+ Gần đây nhiều công trình lại đi vào sự rườm rà, chắp vá, bắt chước kiến trúc cổ điển châu Âu. May mà ở Huế ít nhà chóp, nhà vòm. Nhưng phong cách kiến trúc cổ điển châu Âu mà ta thường gọi là kiến trúc Pháp đang được nhiều chủ đầu tư và xã hội ưa chuộng.

+ Kiến trúc Việt Nam, kiến trúc của từng địa phương ở thế kỷ XXI này như thế nào? Nhất là kiến trúc nhà ở, quả thật còn quá lúng túng.

Một thành phố văn hoá đóng góp cho đất nước nhiều danh nhân kiệt xuất, nhiều anh hùng dân tộc trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, khoa học... nhưng Huế lại quá ít tượng đài. Hệ thống tượng đài trong thành phố đã được đặt ra từ lâu nhưng trong chính sách xây dựng chưa được quan tâm đúng mức, vì vậy khi có nhu cầu xây dựng thì rất lúng túng về địa điểm và quy mô công trình.

-Trên địa bàn thành phố có một bộ phận dân cư thường xuyên sống trên sông nước với gần 900 hộ, hơn 8000 người. Phần lớn cư dân vạn đò không có nghề ổn định, đời sống kinh tế và xã hội hết sức thấp kém và thuộc diện đói nghèo. Trẻ em ít được đi học. Tốc độ tăng dân số khu vực nầy rất cao. Nước sinh hoạt và nước thải trên cùng một chỗ. Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tại khu vực các vạn đò sinh sống, cảnh quan hai bên bờ sông bị xâm hại. Tỉnh và thành phố  Huế đã có nhiều chủ trương, chính sách để định cư dân vạn đò. Một số dự án đã được triển khai ở Kim Long, Bãi Dâu... Đây là một vấn đề xã hội lớn có tác động đến cảnh quan và môi trường đô thị, do đó, việc định cư dân ở khu vực nầy là “nhiệm vụ cấp bách”.

-Thành phố Huế được xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia nhưng cơ chế như hiện nay là thành phố loại II trực thuộc tỉnh. Điều đó rất khó cho quản lý đô thị nói chung, quản lý kiến trúc nói riêng.

- Vai trò tư vấn phản biện trong kiến trúc là một nhiệm vụ quan trọng của Hội Kiến trúc, thông qua Hội đồng Kiến trúc Quy hoạch của tỉnh, công tác tư vấn trong kiến trúc ở thành phố Huế đã tạo được tiếng nói nhất định. Lãnh đạo tỉnh và các ban ngành thường xuyên có yêu cầu với Hội đồng trong thiết kế kiến trúc và quy hoạch. Tuy nhiên, nhận thức về công tác tư vấn còn đơn giản, có khi còn làm lấy lệ. Ở một đô thị di sản, đặc biệt trong công tác trùng tu di tích, việc tư vấn phản biện cần trở thành một nguyên tắc trong lập dự án, có như vậy mới tập hợp được những ý kiến khoa học và tìm giải pháp tốt nhất cho công trình kiến trúc và xây dựng đô thị.

Trên đây là một số vấn đề bức xúc của kiến trúc Huế. Đây là một lĩnh vực lớn được xã hội quan tâm và cần có tiếng nói đồng tình để có được những giải pháp hữu hiệu.

Chúng ta đang sống trong thập kỷ mới với những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ. Toàn cầu hoá là tất yếu. Kiến trúc có nhiệm vụ phải tham gia vào sự phát triển chung nhưng đồng thời phải đạt được tính bền vững cho đô thị và góp phần vào công tác giảm nghèo. Nhiệm vụ đó không ngoại lệ đối với những người quản lý và các kiến trúc sư ở Huế.

Tạo lập được diện mạo đô thị đặc trưng, góp phần xây dựng nên thành phố Huế hiện đại, văn minh tương xứng với tầm vóc của đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cần thực hiện tốt hai nhiệm vụ trọng tâm là kế thừa, bảo vệ, tôn tạo và giữ gìn các di sản lịch sử, văn hoá và các công trình kiến trúc có giá trị, đồng thời phát triển văn hoá kiến trúc đô thị mới hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Con đường đó không dễ dàng và có nhiều chông gai. Cha ông ta để lại một Cố đô đẹp, chúng ta có trách nhiệm tiếp nhận, giữ gìn và tôn tạo nó ngày càng tốt hơn.

Huế , tháng 3 năm 2002.
NGUYỄN THẾ TRUYỀN
(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.

  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.