Thanh Hải - “Một nốt trầm xao xuyến”

14:54 10/02/2010
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

Nhà thơ Thanh Hải - Ảnh: lucbat.com

Những năm kháng chiến chống Pháp, Thanh Hải công tác ở đoàn văn công. Những năm chống Mỹ, anh tiếp tục làm công tác văn hoá - tuyên huấn ở chiến khu Trị Thiên. Sau 1975, Thanh Hải từng làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Uỷ viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Anh đã xuất bản các tập thơ: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1 năm 1970, tập 2 năm 1975); Dấu võng Trường Sơn (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển (1982). Anh được Hội Văn nghệ Giải phóng trao Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965 và được Chính phủ truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, đợt 1, năm 2001.


MAI VĂN HOAN


Thanh Hải - “Một nốt trầm xao xuyến”


Từ những năm 1960 đến 1965 hầu như những người yêu thơ ở miền Bắc ai cũng biết và thuộc lòng một số bài thơ “vượt tuyến” của nhà thơ Thanh Hải. Cùng với Giang , Thanh Hải là một hiện tượng thơ rất được chú ý lúc bấy giờ. Nếu Giang nổi tiếng với bài thơ Quê hương thì Thanh Hải được mọi người biết đến với bài Mồ anh hoa nơ. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thanh Hải vẫn một lòng kiên trung với cách mạng, chung thuỷ với thơ ca.

Thơ Thanh Hải chân chất, bình dị, đôn hậu như con người của anh. Hầu hết thơ anh là thơ “trữ tình công dân”. Thanh Hải tiếp nối mạch nguồn thơ ca cách mạng của Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu… Sau hiệp nghị Giơ ne vơ, anh được giao nhiệm vụ ở lại miền Nam, sát cánh với nhân dân Trị Thiên Huế gây dựng phong trào, tổ chức đấu tranh đòi thống nhất đất nước. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến những cuộc đàn áp vô cùng dã man của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với những người bị chúng tình nghi là “Cộng sản”: Hôm qua chúng giết anh/ Xác phơi đầu ngõ xóm. Bọn chúng “trừng mắt” ra lệnh: Thằng này là Cộng sản/ Không được đứa nào chôn! Nhưng bất chấp lời đe doạ của chúng, nhân dân vẫn chôn cất những chiến sĩ Cộng sản hết sức chu đáo: Lũ chúng vừa quay lưng/ Chiếc quan tài sơn son/ Đã đưa anh về mộ/ Đi theo sau hồn anh/ Cả làng quê, đường phố/ Cả lớn nhỏ gái trai/ Đám càng đi càng dài/ Càng dài càng đông mãi… Đó là những câu thơ trong bài Mồ anh hoa nở mà tôi đã học thuộc lòng khi còn là một cậu học trò lớp sáu trường làng. Những câu thơ dung dị ấy cứ đi thẳng vào lòng người, chẳng cần hoa hoè, hoa sói. Trải qua mưa nắng thời gian những bông hồng trên mộ người Cộng sản vẫn toả hương ngào ngạt. Bởi đó là những bông hồng nở từ máu của các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì sự nghiệp thống nhất đất nước. Hình ảnh: Bông hồng đỏ và đỏ/ Như máu nở thành hoa là một hình ảnh hết sức ấn tượng, hết sức ý nghĩa mà không phải bất cứ nhà thơ nào cũng có thể viết được.

Cũng vào thời còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã thuộc lòng những câu thơ viết về Bác của Thanh Hải: Đêm nay bên bến Ô Lâu/ Cháu ngồi cháu nhớ chòm râu Bác Hồ… Càng nhìn càng lại ngẩn ngơ/ Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn. Những câu thơ này đã đi vào tâm thức của nhiều thế hệ người Việt . Nó tồn tại như những câu ca dao lưu truyền trong dân gian. Nhà thơ Thanh Hải kể rằng khi anh đọc bài thơ Cháu nhớ Bác Ho cho Bác nghe, đến câu Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn, quá xúc động, anh dừng lại giữa chừng. Bác bèn ôm lấy anh, vừa hôn vừa nói: “Đây, hôm nay Bác hôn thật đây!”. Đó là một kỷ niệm không bao giờ quên trong cuộc đời làm thơ của anh. Vào ngày 19/10/1962, đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu ra thăm miền Bắc đặt chân đến Hữu Nghị quan. Trong đoàn có cả nhà thơ Thanh Hải. Anh phải lặn lội từ Trị Thiên vào tận Tây Ninh, qua Căm pu chia, bay sang Trung Quốc rồi đi tàu về biên giới Lạng Sơn. Nhà thơ nghẹn ngào: Cách nhau chỉ một mái chèo/ Mà đi trăm núi, vạn đèo đến đây! Khi nghe nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm bài Tám năm nay mới gặp nhau của anh trong chương trình Tiếng thơ, Đài Tiếng nói Việt , rất nhiều người đã không cầm được nước mắt. Bao nhiêu vui sướng, bao nhiêu hờn tủi, bao nhiêu căm giận... chất chứa trong hai câu thơ giản dị này. Thời đó, Trị Thiên và Quảng Bình đều là những tỉnh ở “tuyến đầu Tổ quốc” nên tình cảm hết sức keo sơn, gắn bó. Thanh Hải đã thay mặt đồng bào Trị Thiên bày tỏ tình cảm sâu nặng ấy với nhân dân Quảng Bình qua những vần thơ rất đỗi chân thành: Quảng Bình ơi, chín năm xưa đánh giặc/ Vui khổ cùng chung mảnh đất miền Trung/ Xa cách mười năm, mười năm thầm nhắc/ Lòng hẹn lòng qua đôi bến Hiền Lương…


Thanh Hải có bài thơ Sang đò đêm mưa khá cảm động viết về mối quan hệ tình cảm sâu nặng giữa đồng bào miền với các chiến sĩ cách mạng nằm vùng (thời 1954 - 1965). Người lái đò cho các chiến sĩ bí mật qua sông ngay cạnh đồn bốt của địch là một mẹ già. Hôm ấy trời mưa rất to. Tác giả băn khoăn không hiểu sao mẹ cứ cho đò trôi “lơ lửng, lửng lơ” trên sông làm “ướt cả thân già” mà không cập bến. Má rằng: con ở trong mui/ Cứ ngồi cho ấm để rồi lại đi/ Má ướt một bữa can chi/ Chỉ lo con ướt lấy gì mà hơ. Người chiến sĩ thì thương trời mưa làm “ướt cả thân má”. Mẹ thì lo để các anh lên bờ trong khi trời đang mưa “lấy gì mà hơ”. Bởi: Bên kia những bụi cùng bờ/ Không tơi, không nón đụt nhờ vào đâu? Phải máu mủ ruột thịt mới quan tâm, lo lắng đến nhau như thế. Chỉ một từ “đụt” cũng đủ cho người đọc biết quê hương, bản quán của mẹ. “Đụt” là từ địa phương có nghĩa là trú ẩn. Lời thơ bình dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Phải chờ đến khi trời tạnh mưa, mẹ mới đưa đò vào bến. Khi buộc con đò, “vì dầm mưa lạnh má ho từng hồi”. Tiếng ho của mẹ làm tác giả tràn đầy thương cảm: Má ơi! Đi đã xa rồi/ Mà con vẫn mãi nhìn lui bến đò/ Vẫn còn vọng mãi tiếng ho/ Mỗi khi vượt bốt sang đò đêm mưa…

Tôi tin là những lời thơ bình dị này của Thanh Hải “vẫn còn vọng mãi” cùng năm tháng.

Khoảng thời gian từ 1965 đến 1975 Thanh Hải hoà lẫn vào trong dòng thơ chung, hoà lẫn vào bản anh hùng ca chống Mỹ cứu nước vô cùng sôi nổi, vô cùng hào hứng. Bên cạnh thế hệ làm thơ trước cách mạng như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư… thế hệ trẻ đầy tài hoa như Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Phạm Ngọc Cảnh, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Duy… Thanh Hải vẫn “lặng lẽ” làm “một nốt trầm” góp vào bản “hoà ca” bằng tập thơ: Huế mùa xuân. Sau 1975, anh vẫn trăn trở với đề tài chiến tranh. Tập thơ Dấu võng Trường Sơn (1977) ghi lại cảm xúc của anh về những năm tháng “không thể nào quên” ấy. Từ 1978, thơ anh bắt đầu chuyển sang những tâm sự đời thường. Tôi nhớ mãi buổi nói chuyện của anh với các em học sinh chuyên văn Hai Bà Trưng Huế. Cuối buổi nói chuyện, anh đọc cho thầy trò chúng tôi nghe những bài thơ mới viết của anh. Giọng anh nhỏ nhẹ, trầm lắng. Anh sẻ chia với cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả của những người lính vừa đi qua chiến tranh, của những người dân lao động: Mùa đông còn se lạnh/ Áo chưa đủ hai mùa/ Cơm mỳ với canh chua/ Sốt rét rừng chưa dứt… (Xa em giữa mùa mưa lũ); Lúc hạn hán, lúc mưa rào/ Lúc úng, lúc bão, lúc đào mương phai… (Ngủ đêm ở hợp tác xã). Tiếc là vào đúng thời điểm này anh lại bị căn bệnh ung thư cổ trướng hành hạ.

Mặc dù thế, trước khi mất, Thanh Hải vẫn kịp để lại cho đời bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết vào những ngày cuối cùng trên giường bệnh. Thông qua Mùa xuân nho nhỏ tác giả bày tỏ khát vọng dâng hiến tài năng và sức lực của mình cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc, trở thành một trong những ca khúc quen thuộc, thân thiết cứ mỗi độ xuân về. Màu sắc trong bức tranh xuân của Thanh Hải hết sức dịu dàng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho màu tím của bông hoa. Màu tím vốn là màu đặc trưng của Huế. Chọn bông hoa tím để tả mùa xuân, phải chăng nhà thơ muốn ca ngợi vẻ đẹp riêng của quê hương mình, xứ sở mình? Mùa xuân không chỉ được thể hiện qua màu sắc mà còn được thể hiện qua âm thanh: Ơi, con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời? Nhà thơ hỏi chim chiền chiện hay đang hỏi chính cõi lòng rạo rực của mình? Tiếng chim hóa thành “những giọt long lanh” chẳng khác gì những viên ngọc. Nhà thơ hứng tiếng chim với tất cả niềm sung sướng hạnh phúc. Đó là niềm vui trước mùa xuân mới, cuộc sống mới.

Thanh Hải miêu tả không khí khẩn trương, sôi nổi, hồ hởi của đất nước vào xuân: Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao… “Lộc giắt đầy quanh lưng”, và “lộc trải dài nương mạ” càng làm tăng thêm sức sống mãnh liệt của mùa xuân, của đất nước. Nhịp thơ nhanh, gấp gáp đã thể hiện phần nào không khí khẩn trương, sôi nổi ấy. Đang háo hức, sôi nổi… tác giả đột ngột hạ giọng: Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời/ Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc… Trong mùa xuân chung, Thanh Hải chỉ xin làm “một mùa xuân nho nhỏ”. Nhưng chính “mùa xuân nho nhỏ” đã góp phần làm nên mùa xuân đất nước. “Mùa xuân nho nhỏ” là những bông hoa, những con ong lặng lẽ dâng cho cuộc đời hương sắc của mình, mật ngọt của mình. Một sự hiến dâng “lặng lẽ”, không phô trương. Đức tính ấy là đức tính quý báu của con người Việt “biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”, là đức tính của những người mẹ “nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng”. Từ mùa xuân quê hương tác giả liên tưởng đến mùa xuân đất nước, từ mùa xuân mọi người tác giả nghĩ đến “mùa xuân nho nhỏ” của mình. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hòa nhập: quê hương, đất nước, riêng - chung: Mùa xuân - ta xin hát/ Câu ai, bình/ Nước non ngàn dặm mình/ Nước non ngàn dặm tình/ Nhịp phách tiền đất Huế”. Mùa xuân nho nhỏ không chỉ là một trong những bài thơ hay của Thanh Hải, mà còn là một trong những bài thơ hay viết về mùa xuân của thơ ca đương đại.

Trong bản “hoà ca” chung của thơ Việt , Thanh Hải tự nhận mình chỉ là một “nốt trầm”. Nhưng cái “nốt trầm” ấy đã làm “xao xuyến” bao nhiêu trái tim bạn đọc. Nhà thơ đã hiến dâng tất cả cuộc đời mình cho nhân dân, cho cách mạng, cho đất nước. Nhớ về anh là tôi nhớ về một con người có nụ cười hiền lành, có đức kiên trung, lòng lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Nhà thơ ra đi mới đó mà đã gần ba mươi năm. Trên lăng mộ khiêm nhường của anh ở nghĩa trang Phan Bội Châu, thành phố Huế, ngày ngày:

Hoa hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay…

M.V.H
(252/02-2010)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?