NGUYÊN HƯƠNG
Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.
Ảnh: internet
1.
Thái Kim Lan được hoài thai từ Kim Long, trong một ngôi nhà gỗ nhiều năm tuổi. Kim Long xưa kia, là một vùng đất trù phú nằm bên bờ bắc sông Hương, một trong những khu vực có nhiều nhà vườn đẹp nhất xứ Huế và ngôi chùa Linh Mụ cổ kính thâm nghiêm như một di thần. Nơi mà thuở nhỏ, trong những câu ca dao bên cánh võng của người mạ Huế, Thái Kim Lan đã được lớn lên bằng điệu ru rơm rạ quê mùa “Ru em cho théc cho muồi/ để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu”. Tiếng hát ấy chính là va chạm đầu tiên của bà với Huế - sự va chạm tự nhiên, thuần khiết như hơi thở nhưng cũng sâu nặng như huyết lệ khiến bà phải nhắc đến nhiều lần trong những bài viết sau này. Để mai mốt dẫu có hành hương xa xứ, Thái Kim Lan vẫn không thôi nhung nhớ mái ngói tường rêu và mảnh vườn xưa yêu dấu của mình.
Thuở thanh nữ, Thái Kim Lan là học sinh lớp Đệ nhất C2 Trường Quốc Học Huế. Sau đó, bà chuyển sang học tiếp trường nữ sinh Đồng Khánh - ngôi trường của biết bao nữ nhân nổi tiếng trong lịch sử như nhà giáo dục học Đào Thị Xuân Yến (Bà Tuần Chi), nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, nhà ngoại giao Nguyễn Thị Kiệm, Đại tá - bác sĩ Nguyễn Phước Ngọc Toản, ca sĩ Tân Nhân... Thừa hưởng “vân tay” di truyền của truyền thống ngôi trường trong quá khứ, Thái Kim Lan đã từng xuống đường tham gia phong trào đấu tranh Phật giáo ở Huế vào đầu những năm 1960. Trái tim trung trinh của tuổi hai mươi dư thừa nhiệt huyết đã thực sự ghim vào tâm trí bà những suy nghĩ quan trọng đầu tiên về tôn giáo, về lẽ sống chân thiện ở đời.
Năm 1965, Thái Kim Lan sang Đức học theo chương trình đào tạo Giáo sư Đức ngữ của Viện Geothe Sài Gòn đặt tại Huế. Sau đó, bà đã lựa chọn triết học Immanuel Kant làm đối tượng nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của mình. Đề tài được Hội đồng thẩm định đánh giá cao, và quan trọng, là yếu tố quyết định để bà được giữ lại làm giảng viên tại Đại học Tổng hợp Ludwig, Maximilian, Munich, CHLB Đức. Và như vậy, cuộc dời Huế năm 1965 và triết học lý tính của Kant đã khai mở câu chuyện về một người phụ nữ bé nhỏ trở thành Giáo sư Triết học tại Âu châu.
Ở Thái Kim Lan là sự mộ điệu và chiêm bái Phật giáo đến độ gần như tuyệt đối, để từ đó, Phật thoại không chỉ là hệ thống lý thuyết chủ chốt trong bài giảng của bà tại các giảng đường đại học mà còn là chủ đề trong nhiều bài viết xuất sắc. Cái hay ở chỗ, Thái Kim Lan không đề cập đến Phật giáo như một bộ xương đã đông chắc từ thời xa xưa mà nhìn nhận nó như một cơ thể sống. Bà gắn liền giáo lý nhà Phật với những con người cụ thể mà bà đã được tiếp xúc như Sư bà Thích Nữ Cát Tường, Sư bà Diệu Không, Ôn Mật Hiển, Sư bà Viên Minh... để người đọc không cảm thấy giáo điều, mệt mỏi. Phật giáo, trong quan niệm của bà là sự bình dị ở đời, là sự sống và cái chết luôn có giá trị ngang bằng nhau đối với một thân phận đang nảy mầm và đang sống.
Giọng nói và chữ nghĩa của Thái Kim Lan cho chúng ta biết rằng, bà là một người rất Huế, thật Huế ngay giữa phương Tây phồn hoa. Ngắm nhìn cái cách bà đi đứng nói năng, gương mặt nương tựa nhưng đầy tự hào khi nâng niu những vạt áo dài cổ, việc bà làm mỗi khi từ Đức trở về... mới thấy hai tiếng quê hương quả là có sức nặng níu giữ con người. Thái Kim Lan yêu Huế tự nhiên, nhiệt thành như từ ống tay áo của bà của mẹ chui ra. Và càng sống lâu ở phương Tây, bà lại càng ý thức rõ hơn về thân phận phương Đông của mình. Đó là một thân phận còn sống và khát sống, luôn luôn có nhu cầu được bảo bọc bởi tiếng mẹ đẻ và những món ăn tập tàng từ thuở hàn vi.
Trong cùng một trật tự ấy, sông Hương như một dải lụa, buộc chặt và xuyên nhập ý nghĩ ra đi - trở về của người phụ nữ mang tên gọi Thái Kim Lan. Ngôi chùa, cánh đồng, dòng sông luôn là những ảnh hiện điển hình về nỗi nhung nhớ quê hương của bất kỳ một người con xa xứ nào. Và ảnh hiện ấy tạo nên mắt nhìn về giá trị cốt lõi của nòi giống, bện sâu trong tâm trí, theo bà trong suốt những năm tháng học tập và sinh sống ở Muenchen tuyết đổ bời bời.
2.
Nhìn từ diễn trình tư duy văn hóa truyền thống, người Huế luôn có ý thức tổ chức các câu chuyện văn hóa của mình bên bờ sông Hương, từ hoạt động sinh kế như canh tác, chài lưới đến nghi thức lễ hội, ca nhạc, cúng bái thần linh... Tôi tin chắc rằng, cũng giống như tổ tiên của mình, Thái Kim Lan luôn cất giấu và tàng trữ những kỷ niệm của mình, của vùng đất mình quanh lưu vực một dòng sông.
Một trong những vùng sâu ký ức luôn được bà nhắc đến một cách đầy tự hào, kín đáo và riêng biệt, đó là chiếc áo dài. Thái Kim Lan muốn nhìn áo dài như một giá trị cốt lõi của người sông Hương, và bằng cách ấy, áo dài Huế điềm nhiên trở thành đỉnh cao của nghệ thuật trang phục truyền thống Việt Nam, bên cạnh áo tứ thân của Bắc Bộ và áo bà ba ở Nam Kỳ. Rằng, qua sự kiểm chứng nghiêm ngặt và khách quan của thời gian, áo dài xứ Huế xứng đáng trở thành những bảo vật mà một lúc nào đó hậu thế phải “xếp tàn y lại để dành hơi”.
Triển lãm Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh hồi tháng 1/2015 tại thủ đô Hà Nội do Thái Kim Lan và nghệ sĩ sắp đặt người Đức Veronika Witte tổ chức được xem là một hoạt động văn hóa đáng chú ý. Bộ sưu tập gồm 12 chiếc áo dài các loại của từ vua chúa bà hoàng đến người thường mặc, và qua hơn thế kỷ gìn giữ với những câu chuyện riêng chung, những chiếc áo này đã trở thành bảo vật.
Giá trị của bảo vật, hẳn nhiên, không chỉ nằm ở giá thành và thời gian, dẫu thành thật mà nói, để tạo được chúng, người ta đã chi nhiều công sức nghiên cứu và thiết kế bởi những nghệ nhân lành nghề. Giá trị của bảo vật, với một người như Thái Kim Lan, nằm ở niềm tự hào được vua chúa ban phát vì đức hạnh của chính những người góa phụ trong gia đình bà. Họ là những người phụ nữ có ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng, ý chí và nghị lực đối với Thái Kim Lan. Chiếc áo vua ban minh định một lối sống khắc kỷ, khổ hạnh của người phụ nữ phong kiến thời tôn giáo cửa Khổng sân Trình chi phối. Với bà, triển lãm này chính là sự lần giở những lớp xiêm áo vàng phai một thuở có tuổi đời còn xưa hơn... Diễm ấy.
Bởi thế cho nên, nói Thái Kim Lan là một người “nghiện” hương xưa chính hiệu cũng không sai. Lựa chọn áo dài để triển lãm chính là sự lựa chọn một thông điệp văn hóa. Qua hơn trăm năm gìn giữ, bộ sưu tập áo dài của gia đình bà đã khoác lên mình một giá trị vượt tầm những món vật xưa cũ, trở thành bảo vật, được tôn vinh bởi chủ nhân chân truyền của dòng họ, trong khoảng thời gian hiện đại và thông điệp văn hóa đi kèm. Rượu ngon ở vị hậu, áo đẹp ở người mang. May thay, những chiếc áo ấy hoàn toàn có khả năng gây thương nhớ ám ảnh cho những ai có niềm đam mê thực sự với văn hóa cổ truyền.
3.
Để tìm một vai chính cho thước phim quay chậm về Huế, có thể Thái Kim Lan sẽ thật sự tròn vai. Người phụ nữ ấy luôn nhìn Huế như một cánh cửa vừa rộng vừa hẹp, trong dòng chảy của thời gian chẳng dễ gì rửa trôi được nét lặng lẽ, ngầm ẩn tận sâu bên trong đất Thần Kinh này. Bà nhớ Huế của những mùa đông hương trầm gỗ thông, của sông Hương chảy âu sầu qua thành phố, tưởng buồn ấy vậy mà thật bình yên. Đôi mắt người đàn bà đã dành nhiều con giáp của đời mình để tận dâng tình yêu với xứ Huế như chưa từng mệt mỏi ấy khiến tôi cảm nhận một thứ ánh sáng diệu huyền, mỏng mảnh nhưng kiên ngạnh vô cùng.
Tôi cảm thấy niềm vui thơ trẻ của bà khi được về quê nhà ăn Tết. Phố Huế cuối năm tấp nập và nhiều màu sắc. Bà trở về, trong một ngày tháng Chạp se lạnh nắng hanh, dẫu thoáng mệt nhưng vẫn đủ nồng nàn để thì thầm vào vành tai thành phố những lời run rẩy. Bà về nhà. Là về nhà ấy, ở Kim Long nhìn ra sông, có cả khu vườn với hoa me tím ngát. Bà sẽ nghiêng người thu mình lặng ngắm khu vườn như đứa trẻ say giấc tròn vo được mệ già cho chăn ấm.
Xa xứ bao nhiêu năm nhưng mỗi khi về lại quê bà vẫn giữ thói quen ao ước được ăn cháo gạo đỏ với cá kho vào buổi sáng sớm. Trong tâm hồn của cô nữ sinh Đồng Khánh ngày ấy, Huế vẫn luôn là một mảnh vườn nhỏ, tĩnh lặng và thơm mùi hương phấn xa xưa. Bà sẽ ngồi đấy, nhặt nhạnh những tàn phai và tóc trắng còn sót lại để đưa vào cuốn sách Đốt lò hương ấy, bằng đôi mắt của một người con gái sông Hương.
![]() |
TS Thái Kim Lan tại buổi ra mắt tác phẩm "Đốt lò hương ấy" |
Đốt lò hương ấy thực sự là một vùng kỷ niệm trong ký ức của Thái Kim Lan. Như một tàng thư cũ kỹ, cuốn sách là lời thủ thỉ của bà với những tri kỷ đã hóa thành cát bụi. Bà dường như vừa miệt mài lại vừa hân hoan mời gọi người đọc bước vào khu vườn của mình, được tự do nhìn ngắm, tiếp xúc, chiêm nghiệm tất cả mất mát, hạnh phúc, đớn đau, chia ly, ảo ảnh - những mảnh vỡ mặn chát của ký ức, được rơi ra từ chính tâm hồn tha phương đơn độc của bà. Tôi thực sự thích hệ thống từ vựng của Thái Kim Lan trong sách này. Có những chữ tinh tế, đắt giá như muối trắng nhưng có những từ cũng thật giản dị, mộc mạc như gạo nương. Chúng nguyên hợp với nhau tạo thành giọng văn vừa cuốn hút vừa uyên bác, rắn rỏi nhưng nữ tính vô cùng.
Vả chăng như vậy mới có thể ôm mang được nỗi nhớ của một người con xa Huế trong những ngày lạnh giá nơi xứ người? Thật thà, tôi muốn nỗi nhớ ấy cứ dâng đầy thêm nữa.
4.
Sông Hương mùa chưa thu, nắng và gió vẫn bồng bềnh trên từng con sóng nhỏ. Tôi tìm đến và đứng ngoài cổng nhìn vào ngôi nhà từ đường của dòng họ Thái có tuổi đời rất cổ. Thời gian chất buồn vui trên từng lớp ngói, rêu phong và kiêu sa, như giọng hát liêu trai của Thanh Thúy thuở nào. Những cây cột đen bóng, u tối và trầm ngâm nhìn ra mảnh vườn xưa tím ngát. Thái Kim Lan không có ở đó, vậy mà tôi cứ tưởng như bà đang ngồi ở bậc thềm viết thư gửi về Đức cho cô con gái nhỏ thuở nào.
Bà đã về Đức, mang theo một phần hồn Cố đô. Nhà Huế giữa phương Tây xa hoa vẫn là nhà vườn, giường gỗ, tràng kỷ, thi thoảng vẫn thơm mùi bánh lá bởi niềm nhớ thương của chủ nhân. Trong nghìn trùng xa cách, đôi bàn tay gầy guộc gân xanh ấy vẫn cần mẫn bóc từng lớp quê mỏng mảnh để đắp lên bức tường có tên gọi quê nhà. Với Thái Kim Lan, đó không chỉ là nỗi nhớ đơn thuần mà đã trở thành một phần của tập quán tinh thần cá nhân.
Tôi đã có dịp ngồi rất gần bà, chính là trong triển lãm về áo dài ấy. Chiều tháng Chạp miền Bắc rét ngọt hanh hao, bà mặc một chiếc áo dài nhung đỏ, khăn quàng qua vai và búi tóc bao giờ cũng thế. Thái Kim Lan có giọng nói thật hiền lành, nhu thuần như nhất. Tôi nhìn sâu vào đôi mắt ấy, ở đó có một vệt khói dài, thăm thẳm, hun hút đủ để người đối diện thấy an tâm. Ánh mắt ấy nói cho tôi biết, rằng dù đã gặt hái được nhiều thành công, đã vượt qua nhiều ngã rẽ, đã được cộng đồng biết mặt đặt tên nhưng có những lúc bà thực sự rất buồn. Một nỗi buồn có thật, trong vắt ngọc tuyền, dẫu có lúc khiến bà hoang mang mỗi khi trở về Huế nhưng tôi tin đó là điều vô cùng nghĩa lý.
Mắt buồn, là mắt của sông Hương những chiều đông rét mướt. Trong đời mình, bà đã lặng nhìn dòng sông ấy bao nhiêu lần, đã bao lần ghé uống nước giếng làng do sông bồi đắp, đã để tóc thề bay, đã bao lần nhìn sông một lần trước khi hồi Đức... Những điều này chỉ có thể biết được bằng cảm nhận. Và người nữ ấy đã thực sự lắng lại, như một cuộc thanh tẩy về tâm hồn.
N.H
(TCSH332/10-2016)
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.