Hơn 50 năm vừa viết văn vừa làm báo đã làm cho nhà văn Graham Greene trở thành một người nói tiếng nói của quần chúng trên thế giới.
Nhà văn Graham Greene - Ảnh: internet
Trong nhiều năm tác giả của những cuốn tiểu thuyết "Người Mỹ Trầm Lặng" và "Quyền Lực và Danh Dự" đã lấy đề tài từ châu Mỹ La Tinh, châu Á và châu Phi. Sau chuyến viếng thăm lần thứ ba đến Nicaragua và chuyến viếng thăm mới đây đến châu Mỹ La Tinh, Greene đã viết về văn chương, chính trị và tôn giáo trong những tác phẩm của mình ở lứa tuổi 80. Dưới đây là bài phỏng vấn của phóng viên tờ El País Diario (Argentina) với nhà văn Graham Greene.
P.V: Ông đã đến Nicaragua ba lần. Điều gì đã quyến rũ ông đến với đất nước này vậy? Chắc là ý tưởng để ông viết một cuốn tiểu thuyết?
G.G: Không. Đó không phải là vấn đề. Ở bất kỳ nơi nào tôi đến, tôi cũng nhìn vào con người, các thành phố và những đất nước trong một cách mà nó có thể bao hàm trong một tác phẩm văn học. Nhưng bối cảnh là một chuyện còn ý tứ lại là một chuyện hoàn toàn khác. Tình tiết hoặc chủ đề của một cuốn tiểu thuyết không cần thiết phải được phát triển trong suốt chuyến đi, mặc dầu điều ấy vẫn thường xảy đến cho tôi. Nói chung, tôi không bao giờ tự đặt ra cho mình cái mục tiêu phải trở về với một cuốn tiểu thuyết: một ý đồ như thế sẽ làm cho tôi tê liệt và buộc tôi phải tiếp cận "văn chương" với kinh nghiệm của mình cũng như với những người mà tôi tiếp xúc. Tôi thích ghi lại những ấn tượng của mình, những điều mà lúc đó được dùng để viết những bài báo về chuyến đi, trong nhật ký của tôi.
P.V: Gần 50 năm đã trôi qua giữa những chuyến đi Mehico và Nicaragua của ông. Cuốn sách nào trong "Loạt sách về Châu Mỹ La Tinh" mà ông cảm thấy là thành công nhất, và cuốn nào thì ông cho là thất bại?
G.G: Hãy để cho đọc giả phán xét mặc dầu tôi không tiết lộ quan điểm của tôi như một tác giả. Tôi nghĩ cuốn "Viên Lãnh sự Danh Dự" là cuốn hay nhất. Tôi ít bằng lòng hơn với cuốn "Biết về Vị Tướng", nhưng điều này cũng có nhiều lý do. Bốn chuyến đi Panama không những chỉ cung cấp cho tôi những tình tiết văn chương mà nó còn chế ngự được tôi. Nhưng ở cái tuổi 80 bạn sẽ tự hỏi là không biết bạn có còn đủ thời gian và sức mạnh để viết một cuốn tiểu thuyết dài không? Tôi không muốn để một tác phẩm dở dang vì thế mà tôi tìm cách thoái thác. Tôi quyết định dùng thể loại tư liệu và tiểu sử, miêu tả cái cách mà những ý tứ văn chương đã dần dà phát triển trong người tôi. Cuốn sách này vừa có phần giống như một cuốn hồi ký vừa giống như một cuốn sách về du lịch. Nó hoàn toàn không phù hợp với cách viết của tôi và tất nhiên, nó không phải là một cuốn tiểu thuyết, mặc dầu tôi phải mất hai năm để viết. Đó là tất cả lý do khiến tôi không muốn dự liệu trước bất cứ một trường hợp nào ở Nicaragua. Tôi đã yêu đất nước này. Tôi hiểu người dân và cách họ sống, tôi ngưỡng mộ cuộc đấu tranh của họ. Tôi cảm thấy, có trách nhiệm phải đưa ra trên mặt báo một sự minh chứng về những gì tôi đã chứng kiến. Không cần thiết nó phải là một cuốn tiểu thuyết, mà chỉ cần nó mà một bản tường thuật phản ảnh một lập trường trong sáng.
P.V: Ông đã nhận lời mời của chính phủ các nước tự giải phóng khỏi các chế độ độc tài và của các lực lượng quốc gia tự do chống độc tài. Thế ông có cảm thấy ông là một quan sát viên về mặt xã hội đối với bước phát triển của tình hình Trung và Nam Mỹ, một quan sát viên hoạt động nhân danh Châu Âu không?
G.G: Tại sao lại là châu Âu? Tại sao lại không là của Tư tưởng thế giới? Dĩ nhiên việc ấy không phải là một cái tước vị nhiều người có thể chia sẻ một cách công bằng. Nhưng bỏ qua tất cả những chuyện đó, tôi tin rằng quyền lợi của các nước phải được tôn trọng, đặc biệt là quyền tự do dân tộc và sự chọn lựa một chính thể bảo đảm tôn trọng danh dự quốc gia. Tôi đã viếng thăm Panama lần đầu tiên vào năm 1976 do lời mời của tướng Torrijos, nhân đó, chính vị tướng này đã giới thiệu tôi với các lãnh tụ Xanđinô hồi đó đang sống lưu vong. Cái chết của vị tướng ấy trong một tai nạn máy bay vào năm 1981 làm tôi xúc động mạnh. Có thể nghi ngờ rằng đó là một hành động tội ác có tính toán trước hay không?. Tôi cảm nhận, mà không hề phân vân, rằng Torrijos là một con người xã hội chủ nghĩa chân chính. Bây giờ chúng ta chỉ có thể suy đoán về bước phát triển chính trị tất yếu của ông, nhưng điều rõ ràng là nó không phù hợp với những thế lực phản động trong nước hoặc đế quốc Mỹ. Tướng Torrijos chắc chắn trở thành một khuôn mặt quan trọng thứ nhì ở châu Mỹ La Tinh, sau Fidel Castro. Nhưng thay đổi về kinh tế - xã hội bắt đầu dưới thời Torrijos đã để lại tiếng vang trên lục địa và nó còn thực sự là một mối đe dọa lớn cho sự thống trị của chế độ độc quyền Mỹ ở trong vùng, hơn là đối với sự mất quyền kiểm soát con kênh đào nối hai bờ châu Mỹ.
P.V: Báo chí Mỹ nhắc đi nhắc lại rằng không có quyền tự do công dân cũng như quyền tự do chính trị ở Nicaragua, cũng không có tự do tín ngưỡng. Ông có ý kiến gì sau những chuyến tham quan đất nước ấy?
G.G: Điều đó cũng dối trá tương tự như lời tuyên bố của Washington rằng Nicaragua cung cấp vũ khí cho quân du kích En-xanvađo. Các chiến sĩ du kích Xanvado có được vũ khí là nhờ lấy được từ các lực lượng của chính phủ, và do đấy, tất cả vũ khí ấy đều được chế tạo ở Mỹ! Điều độc đáo về cách mạng Nicaragua là sự trung thành với ba nguyên tắc: kinh tế hỗn hợp, chủ nghĩa đa nguyên về chính trị và không liên kết. Người ta không nói đến việc biến cuộc cách mạng ấy thành một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng họ luôn luôn nhấn mạnh đến bản chất chống chủ nghĩa tư bản của nó. Cũng cần phải nói rằng trong những cuộc tuyển cử vào tháng Tám năm 1984, hai phần ba dân Nicaragua đã bỏ phiếu cho mặt trận Sandinô. Nền dân chủ của Nicaragua còn non trẻ, và bị buộc phải đương đầu với mối đe dọa can thiệp từ nước ngoài và đánh trả những cuộc tấn công liên tục của bọn Contras.
P.V: Việc liều lĩnh can thiệp của nước ngoài nghiêm trọng như thế nào?
G.G: Dùng lính đánh thuê, Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh không tuyên bố chống lại Nicaragua. Nếu vì một lý do nào đó mà từ nầy bị loại bỏ, thì sự can thiệp của Mỹ sẽ được miêu tả như chính sách khủng bố dân tộc. Nếu như tổng thống Mỹ không ưa cuộc cách mạng Nicaragua và nền dân chủ của đất nước ấy, thì điều ấy cũng không đủ làm cơ sở để chính phủ Mỹ cung cấp tài chính, huấn luyện bọn Contras và sử dụng chúng như những thí vật trong các cuộc tấn công ăn cướp để chống lại nền Cộng hòa trẻ tuổi. Ông sẽ nhớ lại rằng mùa xuân năm ngoái các nhà lãnh đạo phương Tây ở một cuộc gặp gỡ truyền thống của "Bảy nước lớn" đã chấp thuận một bản tuyên bố chống "chủ nghĩa khủng bố quốc tế". Rõ ràng đây là một nỗ lực nhằm biện minh cho việc ném bom và gửi các lực lượng trừng phạt đến Nicaragua. Ý đồ là san bằng những phong trào giải phóng dân tộc bằng chính sách khủng bố. Để trả lời cho bài phát biểu của hội nghị "Bảy nước lớn" ở Tokyo, tôi đã gửi một bức thư đến tạp chí "The Times" phản đối quan niệm về chủ nghĩa khủng bố. Tuy nhiên, bức thư của tôi đã không được đăng.
P.V: Thế Ban biên tập tờ "The Times" đã giải thích việc từ chối ấy như thế nào?
G.G: Không hề có lời giải thích nào cả. Ông chủ bút chỉ nói rằng bức thư hay, và những sự kiện trong thư làm người ta phẫn nộ nhưng ông ta sẽ chẳng đăng bức thư ấy. Dĩ nhiên là tôi đã đăng bức thư ấy ở một nơi khác. Đây là một sự vi phạm hai nguyên tắc cùng một lúc: nhân quyền và quyền tự do báo chí. Đó là điều xảy ra khi quyền lợi của đất nước bị chà đạp. Đó là lý do tại làm sao không nên ỉm đi những thứ như "chủ nghĩa khủng bố" và cái gọi là "những cuộc chiến tranh nhỏ". Đó là lý do khiến gần đây tôi gia nhập hội Đoàn kết với nhân dân Nicaragua ở Anh.
P.V: Cách mạng Nicaragua còn độc đáo bởi vì sự cùng tồn tại giữa những người Xan-đi-nít và những người theo đạo Thiên chúa, và độc giả nhìn ông như một nhà văn thiên chúa giáo.
G.G: Ồ không! Đúng tôi là một nhà văn Thiên chúa giáo. Nhưng lại là một tín đồ Thiên chúa bất - khả - tri.
P.V: Nhưng "Quyền Lực và Danh Dự" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên đã đưa lại cho ông một uy quyền nào đó và một lời đồn đại rằng ông là người đi tìm sự thật.
G.G: Trong gần 30 năm cuốn tiểu thuyết ấy ở trong danh mục những cuốn sách bị Giáo hội La Mã cấm. Khi Giáo hoàng Paul đệ lục (Paul VI), không hề biết chuyện này, cho tôi có dịp hội kiến, đã nói rằng "Quyền Lực và Danh Dự" là một trong những cuốn sách mà ông thích. Lúc ấy tôi nhắc lại cho Giáo Hoàng rằng Tòa Thánh đã cấm cuốn sách ấy. Giáo Hoàng trả lời rằng một vài tín đồ thiên chúa ắt đã phản đối những cuốn sách của tôi nhưng tôi không nên quan tâm về việc ấy.
P.V: Ông đã viết và xuất bản hầu như cùng lúc những tác phẩm "Ngài Quixote" và "Bác sĩ Fihsen ở Geneva" hay "Đảng Bom", nhưng những tác phẩm mà ngay cái tựa đề của nó đã cho thấy rằng những biến cố được miêu tả là ở Thụy Điển. Có phải điều nầy có nghĩa là ông sẽ đề cập tới chủ đề Châu Âu nữa hay không?
G.G: Thực sự tôi chưa bao giờ ngừng tay về việc ấy. Những cuốn sách của tôi về Châu Mỹ La tinh phản ánh một vấn đề với những căn nguyên từ Châu Âu. Hãy để tôi giải thích. Tuổi trẻ của tôi đã trôi qua trong giai đoạn 1911 và 1933 lúc mà nền hòa bình êm ả nhất trong lịch sử châu Âu thắng thế. Những cuốn sách đầu tiên của tôi đã không thành công và điều ấy có thể đã là lý do tại sao tôi không thích thú với các chủ đề về Châu Âu nữa, và tôi bị quyến rũ vào việc đi du lịch đến các đất nước xa xôi và chưa ai biết đến để tự mình được nhìn thấy. Lúc ấy tôi kết luận được rằng Châu Âu, vùng đất đã sản sinh chủ nghĩa quân phiệt và phải trả giá hàng triệu sinh mạng con người để đánh bại nó, như thể rằng nó đã san sẻ dòng máu bẩn thỉu của nó cho phần còn lại của thế giới. Chủ nghĩa khủng bố trong thời đại của chúng ta chính là di sản của Hitler. Nếu như thế giới ngày nay không còn thấy kinh hoàng trước nhưng cuộc tàn sát người Palestine ở các trại Sabra và Chatila ấy cũng bởi đã từng có những biến cố như thế xảy ra trước đó ở Buchenwald và Auschwitz. Chất độc đã ngấm sâu, đặc biệt vào Châu Mỹ La Tinh: Trước hết, vì đó là vùng đất mà hầu hết những tên quân phiệt tội phạm chiến tranh chạy sang ẩn trốn, và thứ hai nữa, bởi vì đó là nơi mà Đế Quốc Mỹ có "những quyền lợi thiết thân". Tôi thấy khó mà quay trở lại với cái Châu Âu mới mẻ, sạch sẽ và được chăm sóc cẩn thận, một Châu Âu sau khi chữa lành những vết thương, đã trở thành kẻ mất hết ký ức. Tôi đặc biệt thích thú những đất nước mà hoàn cảnh chính trị là một sự khác biệt giữa sự sống và cái chết. Tóm lại, không phải bàn cãi về điều kiện địa lý trong những chủ đề của tôi, nhưng cách giải quyết vấn đề nằm ngay trong quy ước về các giới hạn địa lý. Thế thì nói chung trong văn học chúng có tồn tại hay không?
LÊ HÙNG VỌNG dịch
(Theo tạp chí El Pais Diario, Angentina)
(SH34/12-88)
Kho tài liệu lưu trữ của tiểu thuyết gia nổi tiếng từng đoạt giải Nobel Văn học Gabriel Garcia Marquez đã vừa được một trung tâm của trường Đại học Texas mua lại. Điều này đồng nghĩa với việc các các bài viết phê phán về chính sách đối ngoại Mỹ của Marquez sẽ được bảo tồn tại đất nước mà không phải lúc nào ông cũng có cảm tình.
Theo báo chí Italy, ngôi nhà mà họa sỹ/nhà sáng chế vĩ đại thời Phục hưng Leonardo da Vinci đã ở trong thời gian vẽ bức "Tiệc ly" bất hủ đang được chủ nhà rao bán.
TRẦN HUYỀN SÂM
Việc trao giải Nobel cho Patrick Modiano - nhà văn Pháp, đã gây sự ngạc nhiên đối với công chúng mến mộ tiểu thuyết gia Murakami.
LÊ ĐỖ HUY
Cựu học trò thời bao cấp hẳn đều sốc bởi cách trình bày của Malthus (1766 - 1834): dân số quả đất tăng theo cấp số nhân, trong khi sản lượng thực phẩm cung cấp tăng theo cấp số cộng…
Vivre, c'est s'obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.
RENÉ CHAR
Một trong những đoàn thám hiểm đầu tiên đặt chân tới Nam Cực đã phải gánh chịu một kết cục bi thảm khi cả đoàn 5 người ra đi, không ai sống sót trở về. Mới đây, cuốn nhật ký hành trình của chuyến đi thảm kịch đó đã được tìm thấy trong băng đá.
CƠM HẾN
Đã gần bốn năm nay tôi gắn bó với Boston, và mỗi ngày tôi lại thấy yêu vùng đất này hơn một chút. Boston là thành phố văn hóa, giáo dục lâu đời, là “linh hồn nước Mỹ”, cái nôi của cuộc cách mạng giành độc lập từ nước Anh mẫu quốc. Boston là nơi hội tụ các anh tài không chỉ từ khắp nơi trên nước Mỹ mà còn từ rất nhiều quốc gia trên thế giới. Boston duyên dáng, hào hoa, sang trọng, cổ kính…
Đại diện Bộ Ngoại giao Nga về các vấn đề nhân quyền, dân chủ và nhà nước pháp quyền, ông Konstantin Dolgov ngày 15/10 kêu gọi cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ vở nhạc kịch "Tsukurs Herbert Cukurs" đang được dàn dựng ở Latvia.
Thật khó có thể tin rằng một tác phẩm nghệ thuật trừu tượng lại có thể tác động đến lịch sử khoa học. Nhưng cách Niels Bohr từng dự cảm về thế giới không thể nhìn thấy được của các hạt electron đã cho thấy: khoa học cần nghệ thuật.
Nhà thơ Nga vĩ đại Mikhail Lermontov được coi là “người kế tục” của “mặt trời thi ca Nga” Aleksandr Pushkin. Ông sinh ngày 15/10 /1814 tại Moskva và mất ngày 15/7/1841 trong một cuộc đấu súng với bạn đồng môn Nikolai Martynov.
Bốn ngày sau khi Nobel Văn học năm 2014 gọi tên Patrick Modiano, nhà văn Pháp vẫn coi đây là giải thưởng kỳ lạ dành cho mình.
CAROL MUSKE DUKES
Thơ có quan trọng gì không? là một câu hỏi không có câu trả lời, nhưng điều này vẫn không ngăn được các nhà thơ (và hầu như cả mọi người) thử tìm một giải đáp.
Trong những năm tháng tồn tại, Liên Xô đã có không ít bí mật, trong đó, có những bí mật có khả năng ảnh hưởng đến uy tín và an ninh quốc gia; vì thế, được che chắn, bảo vệ một cách hết sức cẩn trọng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị.
Trước các đồng sự của mình tại tòa Bạch ốc, Tổng thống Barack Obama bất ngờ mang tấm bích chương. Ông trịnh trọng bước ra trong im lặng và sau đó, Ông nở nụ cười thật tươi, những bàn tay của các nhân viên của Ông vỗ đều. Một cử chỉ thật đẹp, một nhân cách “thuyết pháp vô ngôn” của vị Tổng thống nước Mỹ.
Auguste Rodin, nhà điêu khắc vĩ đại đã tạc nên “Người suy tưởng” và “Nụ hôn”, từng yêu say đắm rồi rũ bỏ người học trò và cũng là nàng thơ quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông, Camille Claudel.
Tolstoy từng ấp ủ thực hiện một cuốn sách “đem lại cho người đọc sức mạnh nội tâm, sự bình thản, hạnh phúc, giúp họ giao tiếp được với những nhà tư tưởng vĩ đại…” nhưng cho đến hôm nay, ít người còn nhớ tới cuốn sách này của ông.
LTS: Yann Martel sinh ngày 25 tháng 6 năm 1963 tại Salamanca, Tây Ban Nha và hiện đang sinh sống tại Montréal, Canada. Ngoài việc nổi tiếng với Cuộc đời của Pi, Martel được coi là một người táo bạo khi nảy ra sáng kiến cứ nửa tháng lại gửi sách cho Thủ tướng Canada Stephen Harper và đề nghị Harper nên đọc. Dưới đây là một trong những lá thư đó của ông, qua bản dịch của Nguyễn Đức Tùng.
Nghệ sĩ piano chuyên nghiệp tài năng Igor Lovchinsky, người hiện đang theo học Tiến sĩ chuyên ngành vật lý học tại Đại học Harvard, trò chuyện với mục Sự nghiệp trên tạp chí Science, cho biết anh đã “bị” nghiện khoa học như thế nào và những trải nghiệm âm nhạc giúp ích gì cho anh khi làm khoa học.
"Kính gửi đồng chí Mikhail Sergeyevich Gorbachov, Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô...
Cuốn tự truyện lần đầu được xuất bản của nữ nhà văn Laura Ingalls Wilder - tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” - sẽ cho độc giả được biết những điều không như mơ đằng sau cuộc sống được “tô vẽ” trong cuốn tiểu thuyết…