Tâm thức hiện sinh trong Phấn thông vàng

08:36 25/10/2016

TRẦN KHÁNH PHONG

Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định nguyên lí con người phải tự làm ra chính mình, chứ không trông chờ vào ai khác, cho dù tồn tại có bi đát, ngặt nghèo.

Ảnh: internet

Chính vì tính tích cực ấy mà ngày nay triết thuyết hiện sinh vẫn được nhắc lại. Ý thức hiện sinh đã có từ lâu trong văn học Việt Nam. Các nhà nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra điều đó trong Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm (Lê Tuyên: “Thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh”; “Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày”) và thơ Hồ Xuân Hương (“Đỗ Long Vân: Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương”). Tập văn xuôi Phấn thông vàng (1939) của Xuân Diệu cũng mang dấu ấn tâm thức hiện sinh và việc bàn bạc đến điều này cũng không phải là không có căn cứ.

So với thơ ca thì Phấn thông vàng không được giới nghiên cứu quan tâm nhiều lắm. Sớm nhất, có lẽ là Vũ Ngọc Phan (Nhà văn hiện đại - 1941) xếp Phấn thông vàng vào nhóm văn xuôi luận đề và coi giá trị của tác phẩm là ở chức năng gợi suy tư cho độc giả. Vũ Đức Phúc (1971) nhìn dưới góc độ giai cấp luận cho rằng tác phẩm “có chú ý đến người nghèo”1. Từ Đổi mới (1986), Nguyễn Đăng Mạnh cũng dựa vào lập trường giai cấp để phê phán sự bế tắc, quẩn quanh trong Tỏa nhị kiều là “càng yêu đời, càng thấy ngán cho đời”2. Tiếp đó, Nguyễn Lương Ngọc (Nhớ bạn - 1992), Lưu Khánh Thơ (“Xuân Diệu - Một tài năng đa dạng”) khai thác tính hiện thực và lãng mạn trong Phấn thông vàng.

Về tính hiện sinh trong Phấn thông vàng, ít có công trình nào quan tâm đề cập đến phương diện tồn tại con người, nhất là trầm luân đời người - một dấu ấn của tâm thức hiện sinh. Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ mà chúng tôi lựa chọn để bàn đến trong bài báo này với mong muốn khẳng định giá trị nhân bản của nó. Hướng nghiên cứu này dựa trên mối quan hệ gần gũi, nhất là những nét tương đồng giữa chủ nghĩa lãng mạn trong văn học với tư tưởng triết học của chủ nghĩa hiện sinh. Khi viết đề tựa cho tập Phấn thông vàng, Xuân Diệu cho rằng đây là tập “truyện ý tưởng”. Hướng tới những mảnh đời buồn nhạt là sự ưu tư mang tính triết lý (dù tác giả phủ nhận điều này) về những thân phận trầm luân. Những nhân vật Quỳnh và Giao (Tỏa nhị kiều), các ông giáo và bà lão (Thương vay), Tư (Người học trò tốt)… là những thân phận người như thế. Tồn tại và bị trói buộc bởi chức trách, bởi cái xưa vậy nên nay cũng vậy, bởi cái khốn khó đè nặng… khiến sự sống trong họ bị bào mòn đi, tồn tại của họ trở nên vô nghĩa. Họ sống mà chỉ như những cái bóng hay chỉ như những sự vật. Đó là những ưu tư mang tính triết lý của Xuân Diệu về con người.

Trầm luân (misère) là một trạng thái tồn tại được con người quan tâm trước khi triết học hiện sinh ra đời. Khi quan tâm đến phương thức tồn tại của con người cá nhân với tư cách là một hệ thống lý thuyết triết học, chủ nghĩa hiện sinh đề cập đến trầm luân qua tồn tại tại thế (Dasein). Dù không thống nhất về tên gọi nhưng các nhà hiện sinh đều coi đó là tình trạng bị vứt bỏ, sống mà như đã chết, sống vô nghĩa, phi lý của con người là trầm luân. Trầm luân, cuộc đời bị vứt bỏ chính là nguyên cớ mà S.Kierkegaard diễn giải lo âu (care) như là một chủ đề quan trọng trong lý thuyết của ông. Khi Nietzsche nói “Người ta không chết bởi kẻ khác mà chỉ chết bởi chính mình”3 thì con người hoàn toàn tự do và chủ động, kể cả với cái chết của mình. Trầm luân cũng từ đó mà ra. Khi tự do không được con người dùng để tự tạo giá trị cho sự sống, tạo ra siêu việt cho tồn tại của mình thì con người đã chết, đã bị đưa hay tự đưa mình vào thân phận trầm luân, vong thân. M.Heidegger cho rằng tồn tại con người trong đời sống thường nhật không thể tránh khỏi mối quan hệ cùng tồn tại với người khác - tha nhân. Và sự đồng thời tồn tại đó đã khiến hữu tại thế đánh mất đi cái tôi của nó trong sa đọa “hữu tại thế luôn luôn sa đọa”4. Ông giải thích rõ hơn về tình trạng sống cái sa đọa đó là “sự an nghỉ của Dasein trong cái thế giới mà nó đã khai minh”5. Với Heidegger, sa đọa là tình trạng con người đẩy mình xuống ngang hàng với sự vật vô tri sau khi đã đạt được mức hiện sinh cho chính nó. Con người đã vươn tới mức độ hiện sinh bằng những hành động dấn thân của mình, nó đã thành một hữu thể ở đó, đã khiến cái thế giới trở nên có giá trị cho sự tồn tại của nó, đã khai minh cho thế giới. Tự làm mất đi cái giá trị sự sống đó, hoặc không tiếp tục dấn thân để không ngừng tìm ra giá trị mới mẻ cho tồn tại của mình, con người rơi vào sa đọa, và đó là dạng thức trầm luân. Theo K.Jaspers, con người sinh ra để thấy mình “bị bao vây, mắc kẹt trong một cái tình thế bất khả kháng do mãnh lực vật lý, xã hội, văn hóa… tạo ra”6. Sinh ra làm người, bị bao vây bởi hoàn cảnh bên ngoài, nếu không siêu vượt để làm nên chính mình mà ngược lại để cho hoàn cảnh đó bào mòn đi sự sống khiến con người rơi vào trầm luân. Trầm luân là thảm trạng con người khi nó chỉ là một thực thể chấp nhận cho hoàn cảnh bào mòn đi sự sống của nó. Con người sống mà chỉ ngang hàng sự vật, không ý thức được sự sống của nó, không ý thức được giá trị bản ngã. J.P.Sartre gọi đó là tồn tại tự nó (being-in-itself). Dù là nằm trong chỉnh thể con người nhưng tồn tại tự nó là tồn tại một cách không ý thức, tồn tại ngang hàng sự vật vô trị. Tồn tại đó tạo ra cảm giác buồn nôn. Trầm luân trong Buồn nôn (La Nausée - 1938) được nhân vật Roquentin nhận ra từ cuộc đời phi lý và thân phận sống thừa ra như sự vật, cỏ cây của mình, tồn tại của con người là một cái gì phi lý (A.Camus) vì thiếu đi cái tồn tại vì nó (being-for-itself), tồn tại mà không có giá trị gì với bản thân. Con người hiện sinh là khi nhận ra thân phận trầm luân đời mình. Theo chủ nghĩa hiện sinh thì trầm luân có thể hiểu là phương thức tồn tại của con người khi mà nó chưa nghiệm ra thân phân bị vứt bỏ vào đời, không sống và không được sống xứng đáng với sự sống của nó, sống một cuộc đời phi lý.

Trầm luân là điều mà con người và văn học đã quan tâm từ trước khi chủ nghĩa hiện sinh ra đời. Đó là sự thức tỉnh của ý thức, nhận biết giá trị của sự sống mà con người cá nhân đang mang trong mình. Và đó là một trong những trăn trở về lẽ tồn tại của con người. Trầm luân là điều mà con người đem cái nhìn về hướng vào bản thân và hướng ra bên ngoài, ra người khác (tha nhân), ra cuộc đời. Vì vậy, nó mang tính nhân bản sâu sắc.

Trầm luân trong Phấn thông vàng là một phát hiện mang chiều sâu triết lý của Xuân Diệu. Cái nhìn của tác giả hướng tới những cuộc đời trầm luân và có những phát hiện rất sâu sắc về sự tồn tại trong sự cam chịu, bất lực của con người tại thế. Nhân vật ý thức được kiếp trầm luân mà nó gánh chịu nhưng hầu như không có sự phản kháng, vươn lên. Trong cuộc đời trầm luân, nó chỉ biết tỏ bày sự sống khi được người khác khơi gợi (Tỏa nhị kiều), nó chỉ biết đau đớn mà nhận ra đời nó khổ (Người học trò tốt), nó chỉ biết thức tỉnh đời mình nhưng không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà nó mang (Cái dây không đứt)… Cái nhìn hướng ra cuộc đời và phát hiện ra những vấn đề mang tính triết lý sâu sắc đó xuất phát từ một con người luôn sống tích cực, luôn siêu việt, vươn lên để tự làm nên bản chất cho tồn tại của mình theo dự phóng và lý tưởng mà mình đã lựa chọn ở Xuân Diệu.

Tỏa nhị Kiều, Xuân Diệu không chú trọng nhiều đến đạo đức, luân lí, thẩm mĩ, mà trước hết chỉ quan tâm tới sự hiện hữu của hai nhân vật Quỳnh và Giao, để được thấy hai cô tồn tại. Đó chính là dấu ấn tâm thức hiện sinh trong tác phẩm:

“Họ là hai cái cây - họ lại còn thua hai cái cây, bởi cây còn ra hoa, ra trái, chứ đời con gái của họ, họ còn biết làm gì?... Giá họ đừng hiền lành như thế thì hơn; giá họ đàng điếm, hung dữ, trơ trẽn, lẳng lơ, tôi được vui vì thấy họ có việc. Tôi sẽ cười nếu thấy họ đua xe đạp, tôi sẽ được thản nhiên, nếu họ đỏm dáng chòng ghẹo bất cứ người nào… Tôi ước được thấy họ chửi mắng người ở, đánh đập con sen, tôi mong họ ngoa mồm lên, lay động hai cặp môi đắp son đỏ choét…”. Chú trọng đến đạo đức, luân lí hay thẩm mỹ thì khi miêu tả nhị Kiều tác giả sẽ khắc họa nhân vật theo những mẫu hình có sẵn, theo những khuôn khổ đã định ra từ hàng ngàn năm nay trong xã hội. Điều đó sẽ hủy hoại sự sống cá nhân của nhị Kiều, những khao khát sống, khao khát vươn lên rất mới của con người thời đại thơ Mới. Chú trọng đến hiện hữu của nhị Kiều, tác giả chỉ ước được thấy hai cô có được sự bứt phá, vươn lên. Nhìn về nhị Kiều, Xuân Diệu thấy hai cô còn thua hai cái cây, thua cả những sự vật vô tri đang hiện hữu trong thế giới xung quanh con người. Một sự hiện hữu hoàn toàn vô nghĩa. Hiện hữu của hai cô gợi ra sự buồn nhạt ở tác giả. Tồn tại như hai hột cơm, nhị Kiều hiện hữu mà hòa lẫn vào cái vô hạn những hạt cơm, hòa lẫn vào vô hạn của thế giới con người. Khó có thể nhận ra hiện hữu của nhị Kiều giữa những vô hạn đó. Nhị Kiều là những con người an phận, không hề nghĩ đến giá trị tồn tại của mình, không hề có ý thức thức tỉnh, không hề phản kháng trước những thế lực đang bào mòn giá trị sự sống của chính mình. Sự tồn tại của hai cô thực ra là không tồn tại, tồn tại mà không hề để lại một dấu ấn gì giữa cuộc đời, không hề có lấy một biểu hiện riêng như là đòi hỏi về sự sống của mình. Trầm luân ở nhị Kiều là sự vô nghĩa của tồn tại. Cảm giác buồn nhạt khi nhìn vào nhị Kiều của tác giả không còn là cái buồn đời thường mà nó là buồn về lẽ tồn tại phi lý của con người. Suy tưởng như vậy từ sự hiện hữu nhị Kiều, đó chính là tâm thức hiện sinh của nhà văn. Từ suy tưởng cuộc đời nhân vật, cái ước ao muốn hai cô có những bứt phá chính là lựa chọn cuộc sống của tác giả, cái cuộc sống mà ông đề cập trong thơ ca: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm (Giục giã). Như vậy, từ trầm luân của người khác, tác giả đã tìm ra ý nghĩa cho cuộc đời mình. Điều này khiến tâm thức hiện sinh đậm đà hơn trong tác phẩm. Tâm thức hiện sinh đã chi phối việc lựa chọn miêu tả hiện hữu nhị Kiều ở những phương diện khác.

Dấu ấn về vẻ bên ngoài của của nhị Kiều là sự dửng dưng, vô cảm và buồn mờ, buồn lặng, nhưng buồn lâu nhưng không vì một lí do cụ thể nào. Hành động của nhị Kiều nhợt nhạt, lặp đi lặp lại đến vô nghĩa. Vẻ bên ngoài, hành động vô nghĩa đó kéo dài trong thời gian đủ lâu để nhị Kiều cảm thấy thân thuộc và không còn nhận ra sự vô nghĩa trong cái lẽ hiện tồn. Nhị Kiều là hai thân phận người trầm mặc với nỗi buồn vô tận. Thiếu nỗi buồn trải dài trong thời gian vô tận, người ta không còn nhận ra hiện hữu của hai Kiều nữa. Để sự tồn tại của mình có ý nghĩa, con người phải bằng hành động, bằng tự do lựa chọn, bằng dấn thân mà đem đến. Mang ý nghĩa là tự thể hiện, tự bày ra, tự tỏ ra, tự thể hiện sự tồn tại nhưng hành động của nhị Kiều chỉ khiến người ta cảm nhận như sự “...xui ta đến cái chết...”. Nhìn về nhị Kiều, cảm giác của tôi chỉ là thương, thương cho cái lẽ tồn tại vô nghĩa nên vì thế mà nó cũng chỉ là một dạng của buồn nhạt ở trên. Đó là cảm giác rất thực, thương - buồn cho sự trầm luân, thương - buồn cho kiếp vong thân, thương - buồn cho những con người mà tồn tại chỉ là sự vô nghĩa, phi lý.

Nhị Kiều, hai thân phận, hai cuộc đời mờ nhạt (Lưu Khánh Thơ) nhưng vẫn chứa đựng khao khát sống, khao khát vượt thoát khỏi mọi ràng buộc để tỏ bày sự sống. Tiềm ẩn sự sống nhưng không thể tự tỏ bày. Tự thân mang sự sống nhưng lại không hề lựa chọn dấn thân để sống một cuộc đời bằng những gì mình có. Nhị Kiều phải nhờ đến sự xuất hiện, tác động của người khác, ý nghĩa sự sống trong họ mới được tỏ ra, bày ra. Nhưng sự tỏ bày đó phải nhờ vào người khác mới có được, hay ý thức thức tỉnh phải nhờ đến tha nhân nên nó cũng trở nên vô nghĩa bởi nó không hề tự thân.

Nhìn về kiếp người, Vũ Ngọc Phan xếp Phấn thông vàng “thuộc loại sách của những người ưa suy nghĩ, muốn sống”7. Chất suy tưởng tạo nên giá trị ở một số tác phẩm nhưng Vũ Ngọc Phan cũng chưa chú ý đến ý thức về sự tồn tại, dù ý thức đó của nhân vật hay ở người kể chuyện (tác giả). Không chỉ là nhị Kiều (Phấn thông vàng), còn những ông giáo (Thương vay) trầm luân bởi họ chỉ có ý nghĩa chức trách xã hội. Điều đó khiến tôi nhận ra tồn tại của họ chỉ là một cái máy mà vô nghĩa. Và Tư (Người học trò tốt) là nhân vật nhận rõ được trầm luân đời mình nhưng bản thân anh cũng không thể vượt thoát ra khỏi kiếp nạn đó. Vùi đời trong trầm luân, Tư phải thốt lên khi gặp được tình yêu “Không ai… khổ bằng tôi; tôi chưa thấy ai khổ sở bằng tôi…”. Tiếng kêu đau khổ là sự thức tỉnh của nhân vật trong thân phận trầm luân, phi lý. Nhận ra rằng mình đã phải kìm nén cái sự sống trong mình suốt bấy lâu, chính Tư đã đưa cuộc đời mình vào trầm luân. Trong Tư diễn ra sự tương tranh giằng xé, một bên là bổn phận với những gì bên ngoài sự sống của nó, một bên là vì sự sống của chính nó - tình yêu. Nhưng sự thức tỉnh ấy cũng chỉ là vô nghĩa bởi Tư lại đưa đời mình vào trầm luân. Chấp nhận cuộc sống chỉ có ý nghĩa với chức phận mới, có trách nhiệm với người khác mà quên đi trách nhiệm với đời mình, trầm luân ở Tư là hình ảnh kẻ thất bại trong cuộc tương tranh giành lại ý nghĩa cho sự sống của bản thân.

Ý thức hay vô thức với kiếp trầm luân của mình, nhân vật trong Phấn thông vàng cũng đem lại những chiêm nghiệm sâu sắc về thân phận con người cá nhân. Con người đã được khai thác ở một chiều sâu triết lý. Điều đó khiến văn xuôi Xuân Diệu vươn tới ý nghĩa bản thể luận.

Trầm luân đời người trong Phấn thông vàng còn được nhìn từ thế giới bên ngoài, hình tượng không gian trong mối quan hệ với nhân vật. Không gian trong tác phẩm là những hoàn cảnh bao trùm lấy số phận con người. Nó là ẩn dụ cho sức mạnh vô song, giam hãm và bào mòn đi ý thức về sự sống của con người. Nó hút con người vào với chức phận và công danh mà quên đi sự sống đích thực. Và do đó, nó khiến cho tồn tại con người trở nên phi lý. Vì vậy, có thể gọi nó là không gian phi lý bởi tồn tại trong mối quan hệ với con người, các nhân vật không tìm ra được ý nghĩa cho sự tồn tại của nó mà lại rơi vào trầm luân. Không gian phi lý trong Phấn thông vàng mang nét tương đồng với hoàn cảnh giới hạn trong triết học hiện sinh.

Thay vì tìm ở không gian sống những yếu tố đem đến ý nghĩa cho tồn tại của mình, ở Tỏa nhị Kiều nó lại bao trùm lấy tồn tại hai nhân vật Quỳnh và Giao. Nó phủ lên cuộc đời như là một giới hạn nghiêm ngặt mà hai nhân vật không thể nào vượt qua. Không gian trong mang vẻ nhạt nhòa và cũ kỹ. Căn nhà và những vật dụng hiện ra với sự đồng điệu về trạng thái. Nhà thì “... không chịu xấu, không chịu tồi, mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít...”, vật dụng trong nhà thì lỡ cỡ buồn một cách lưng chừng. Cái gì cũng lỡ cỡ, chúng không hẳn thế này, không hẳn thế kia, không hề rõ ràng mà như là nằm ở lằn ranh của những thái cực. Chính vì vậy, hiện hữu của chúng mang tới cho người ta cái cảm giác vô lý “...không đủ cớ để buồn nữa kia, mà phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý...”. Đó mới là điều đáng nói ở cái không gian đã giam hãm cuộc đời Quỳnh và Giao. Nó còn khiến cho không gian tự nhiên khi đi vào ngôi nhà trở nên tẻ nhạt. “...Ánh sáng không chịu sáng; giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều dài...”. Có một sự khác biệt của ánh sáng ở bên ngoài và bên trong ngôi nhà. Bên ngoài, ánh sáng có một sự sống đáng kể, nó có bình minh, có buổi trưa và có chiều tà. Khi đi vào ngôi nhà, sự sống đó không còn nữa, nó chỉ trầm mặc với một thứ ánh sáng duy nhất, bất biến: buổi chiều dài. Nó không có cái tươi mới của bình minh, không có cái gay gắt của ban trưa, nó chỉ trầm mặc với cái nhàn nhạt của buổi chiều trong mọi khoảng thời gian. Ánh sáng khiến thời gian dừng lại một cách phi lý, nó khiến mọi thời gian khác thành hư vô. Không gian phi lý bởi nó là bất biến và bởi nó bao phủ sự phi lý đó lên cuộc đời con người. Xuân Diệu nhìn thấy ở cái không gian ấy mang ý nghĩa tự thân: giam hãm, bào mòn sự sống của ý nghĩa của con người. Một loại không gian có lý cho tồn tại của nó nhưng tạo ra sự vô nghĩa lý cho tồn tại con người, những người bị nó bao trùm. Không gian phi lý được điểm thêm bằng người khác (tha nhân): nhân vật người cha với dáng vẻ của một vật cản, ngăn mọi sự tấn công của những điều khác lạ, mới mẻ xâm nhập vào cái buồn nhạt, vô lý của ngôi nhà. Nhận ra người cha cũng là sản phẩm của nền luân lý tồn tại trong xã hội hàng ngàn năm, vậy nên tôi không hề sợ hãi khi bị phản ứng sự vô phép tắc mà chỉ có cảm giác thương ông lắm. Thương cho một con người đã bị bào mòn ý thức về sự tồn tại cá nhân và bị biến thành cái luân lý ấy.

Không gian ở Thương vay Người học trò tốt là vị trí xã hội mà con người đang có hoặc dự phóng vươn tới. Trong nỗ lực biến những không gian đó thành ý nghĩa cho sự tồn tại của con người, các nhân vật lại bị nó hút một cách mãnh liệt. Nhân vật sẵn sàng đắm chìm vào mà đánh mất ý thức về sự sống của chính nó. Không gian đó cám dỗ con người bằng cuộc sống “sang trọng, lương cao, vợ tốt”, bằng sự thỏa mãn nhu cầu vật chất. Thứ không gian đã xâm lăng tồn tại con người, biến nhân vật thành những sự vật với chức năng nào đó: thầy thì phải răn dạy học trò “như những cái máy” (Thương vay), trò thì phải “học chỉ để mà đứng đầu” (Người học trò tốt). Không gian vật chất đã biến con người trở thành sự vật, tồn tại mà không có ý nghĩa với chính cuộc đời họ. Chính vì vậy, không gian đó cũng là phi lý với tồn tại con người. Ở Người học trò tốt, bị không gian ấy hút vào và con người tự hòa nó vào một cách có ý thức. Nhìn bề ngoài, con đường công danh trở thành sự sống của Tư. Vị trí cao trong học hành của Tư chỉ đem lại sự ngưỡng mộ cho chúng bạn, đỗ đạt chỉ đem lại niềm vui cho người thân. Công danh trở thành không gian đem lại ý nghĩa cho người khác chứ với Tư thì nó chẳng có giá trị gì. Không gian ở đây cũng mang tính phi lý bởi nó hút con người vào tồn tại một cách phi lý, tồn tại con người không phải vì cái lẽ tồn tại cho nó.

Không gian ở một số truyện ngắn khác (Thân thể, Cái dây không đứt, Sợ…) được tạo bởi chính con người. Con người tự phân thân mình ra làm mình đích thực và một người khác, tha nhân. Con người nhận thức được cái giới hạn mà lòng người bao phủ lấy tình yêu, bao phủ lấy cái sự sống mà nó có, một sự sống rất mới như tinh thần thơ Mới đương thời. Lòng người trở thành cái không gian trói buộc tình yêu, nó đè nén không cho tình yêu được sống với sự sống của chính tình yêu. Và vì vậy mà con người cũng không được sống với sự sống đích thực của nó. Lòng người cũng là một dạng không gian phi lý bởi nó tạo ra sự phi lý, kiếp trầm luân cho con người.

Không gian phi lý trong Phấn thông vàng là không gian cuộc sống khi con người ý thức được phi lý của nó, là không gian cõi lòng khi con người phân tách để nhìn mình như một tha nhân và thấy tha nhân là một ràng buộc, níu chân sự sống trong nó… Nó phi lý bởi nó khiến con người trầm luân một cách vô thức hoặc ý thức. Cái ý thức thức tỉnh đó xuất hiện sẽ khiến con người vươn tới hiện sinh trung thực khi nó nhìn vào và nhận ra trầm luân đời mình hay trầm luân ở tha nhân.

Phấn thông vàng, tâm thức hiện sinh được thể hiện qua cái nhìn về những cuộc đời trầm mặc trong một thứ mù sương (Xuân Diệu). Điều đó khiến tác phẩm mang chiều sâu ý nghĩa nhân sinh. Xuân Diệu là nhà thơ Mới sôi nổi, rạo rực bậc nhất trong các nhà thơ Mới (ý của Hoài Thanh). Chính vì thế mà ông dễ dàng và sớm nhận ra những thân phận đắm chìm, cảm thấy buồn cho cảnh đời vô vị, buồn cho cái bi đát của kiếp người (Hoài Thanh). Nếu Xuân Diệu chú ý tới cảnh đời áp bức bóc lột, tội ác của thực dân đế quốc, phong kiến, chắc là ông sẽ dễ được chú ý đề cao hơn. Đó là điều dễ hiểu đối với xã hội Việt Nam thời đó. Song sự chú ý đến trạng thái trầm luân theo ý nghĩa triết học này mới thật là mới mẻ và độc đáo, nó mang đậm tư tưởng nhân văn. Và nếu con người có ý thức về tồn tại thì chắc chắn họ sẽ tham gia, tích cực dấn thân vào các sự kiện lớn của dân tộc.

T.K.P
(TCSH332/10-2016)

-----------------
1. Vũ Đức Phúc: Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1954, Nxb. KHXH, tr.115.
2. Dẫn theo Lưu Khánh Thơ: Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo dục 1999 - tái bản, tr.100.
3. F.Nietzsche (1889): Buổi hoàng hôn của những thần tượng, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Nxb. Văn học - 2014, tr.140.
4. M.Heidegger: Hữu thể và thời gian, tập 1, Trần Công Tiến dịch, Nxb. Quê hương 1973, tr.277.
5. Dẫn theo Trần Thái Đỉnh (1966): Chủ nghĩa hiện sinh, Nxb. Thời mới, tr.367.
6. Lê Thành Trị: Hiện tượng luận về hiện sinh, Bộ Văn hóa Giáo dục và thanh niên, Trung tâm học liệu xuất bản, 1974, tr.118.
7. Vũ Ngọc Phan (1941): Nhà văn hiện đại, quyển ba, Nxb. Vĩnh Thịnh (tái bản - 1951), tr.344.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.