Ảnh: sachxua.net
Đây là cuốn sách đầu tiên của chế độ ta viết về đề tài này. Trước kia có cuốn “Cố đô Huế” của Thái Văn Kiểm nhưng nặng về nghiên cứu, sưu tầm hơn là giới thiệu một cách khái quát tập trung vào một đề tài là văn hoá Phú Xuân. Mặc dù tác giả và nhà xuất bản trước khi cho ra đời cuốn sách này đã có chủ trương nhằm đến những người đọc bình thường và khách tham quan du lịch. Nhưng qua những vấn đề tác giả trình bày trong tác phẩm đã chứng tỏ đây là một sự tổng kết những công trình của tác giả đã nghiên cứu về Huế cho đến năm 1981. Trước năm 1981 không lâu, Lê Văn Hảo đã được cơ quan UNESCO và Nhà nước ta yêu cầu viết hai công trình về Huế. Cuốn thứ nhất “Huế, un chef d’oeuvre de poésie urbaine” (1) và cuốn thứ hai: “Huế, un centre culturel et touristique du Việt Nam” (2). Hai cuốn này (vì theo yêu cầu của cơ quan đặt hàng) nên tác giả phải viết nặng về kiến trúc (cuốn trước) và giới thiệu du lịch (cuốn sau). Chỉ có “Huế giữa chúng ta” vừa xuất bản mới tập trung vào đề tài văn hoá. Từ lâu tác giả đã đưa ra khái niệm về “nền văn hoá Phú Xuân”, nhưng chỉ thể hiện trong một số bài báo và một số buổi nói chuyện, qua cuốn “Huế giữa chúng ta” này lần đầu tiên Lê Văn Hảo trình bày đầy đủ về vấn đề này “Văn hoá Phú Xuân là một thực thể”. (Nếu tác giả lý giải được một cách khoa học và được công nhận thì đây là một đóng góp quan trọng cho lịch sử phát triển của văn hoá Việt Nam). Qua mười chương sách, tác giả tập trung nói về các đề tài phong cảnh Huế và chung quanh Huế (từ đèo Ngang đến Hải Vân), Huế qua các thời kỳ lịch sử. Truyền thống văn hoá Huế, Văn học Huế, Nghệ thuật sân khấu Huế, Âm nhạc Huế, Nghệ thuật múa. Huế, Mỹ thuật Huế, Nghệ thuật sống và phong cách Huế, Huế mình đẹp nhất lòng dân (chương cuối cùng này nói về truyền thống yêu nước và cách mạng của người Huế). Tài liệu phong phú, chính xác về mặt khoa học, sâu sắc về mặt nghệ thuật từ trước đến nay chưa có một công trình nào giới thiệu ca nhạc Huế (ngắn và gọn) có giá trị như thế. Tôi nghĩ đây là một đóng góp có ý nghĩa của Lê Văn Hảo cho phong trào ca nhạc Huế đang được phục hồi sôi nổi hiện nay. Cuốn sách tuy chỉ có 220 trang, nhưng quả thực muốn viết nó tác giả đã phải có một kho tài liệu lớn, tích lũy trong nhiều năm; một sự đầu tư trí tuệ đáng kể. Do đó cuốn sách đã chứa đựng một lượng thông tin dồi dào, đáng tin cậy. (Tài liệu dùng tham khảo lớn hơn nhiều so với bản sách tham khảo đăng ở cuốn sách). Các sự kiện được trình bày dễ hiểu, vừa phải, nó vừa mang tính phổ thông nhưng cũng vừa mang tính nghiên cứu. Các cơ quan có trách nhiệm giới thiệu Huế với khách du lịch trong lúc chờ đợi một công trình biên khảo giới thiệu được Trung ương và tỉnh Bình Trị Thiên xác nhận chính thức thì hãy tạm sử dụng cuốn sách này như một cái cẩm nang cho những người mới vào nghề. Cuốn sách “Huế giữa chúng ta” cũng là một món quà của những người yêu Huế tặng nhau, của người Huế tặng cho những người yêu Huế. Với giá trị của cuốn sách, với yêu cầu “khát” muốn biết Huế của độc giả trong nước và ngoài nước hiện nay, tôi tin là Nhà xuất bản phải cho tái bản cuốn sách này nhiều lần. Và để cho những lần xuất bản sau tốt hơn, tôi xin tâm sự với Nhà xuất bản và tác giả một số điểm, nếu tác giả cũng muốn sửa. Vì thế tôi tin tác giả sẽ vui lòng tham khảo những ý kiến đóng góp sau này. 1. Tác giả có nhiều tài liệu nên đã thành công trong việc liệt kê và mô tả các sự kiện văn hoá. Nhưng tác giả đã thiếu những đúc kết, những khái quát nói lên đặc điểm, bản sắc độc đáo của cái gọi là “nền văn hoá Phú Xuân” nói chung và từng ngành nghệ thuật như ca nhạc, múa, sân khấu, nghệ thuật… nói riêng, theo tôi chính nhờ cái đặc điểm bản sắc độc đáo đó (khác với văn hoá Thăng Long) mới có thể nói có hay không có “nền văn hoá Phú Xuân”. Những nơi có nhiều sự kiện văn hoá nhưng không có bản sắc riêng thì nó chỉ có thể là một trung tâm văn hoá chứ không thể có một nền văn hoá. Trái lại có những nơi có ít sự kiện thôi, nhưng nó có bản sắc độc đáo, ở đó vẫn có thể có một nền văn hoá riêng. So với văn hoá Đại Việt, văn hoá Chăm-pa xưa có ít sự kiện hơn, thành tựu cũng nhỏ nhưng nó không thể trộn lẫn vào được với văn hoá Đại Việt. Và vì thế mà đã có một nền văn hoá Chăm-pa. Những tinh túy của văn hoá Chăm-pa đã được văn hoá Việt Nam phát triển ở Phú Xuân rút tỉa khá nhiều. Vì thế có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn hoá Việt Nam ở Huế là một sự tổng hợp nhuần nhuyễn hai nền văn hoá Việt - Chăm. Và chính đó là một đặc điểm của văn hoá Việt Nam ở Huế. Cũng nhờ những khái quát về đặc điểm, bản sắc độc đáo của văn hoá Phú Xuân ta mới có thể nêu được vị trí của văn hoá Việt Nam phát triển ở Phú Xuân như thế nào trong lịch sử phát triển chung của văn hoá dân tộc. (Vấn đề này có dịp sẽ trao đổi thêm với tác giả trong một bài báo khác). 2. Về thứ tự các chương trong cuốn sách chưa hợp lý. Nghệ thuật sân khấu Việt Nam (trong đó có hát bội) là một nghệ thuật sử dụng một lần đến bốn bộ môn khác gồm Mỹ thuật (y phục, vẻ mặt, hình dáng các động tác), âm nhạc (dân ca), múa (vũ điệu cộng với âm nhạc) và văn học (kịch bản). Thế mà tác giả lại trình bày sân khấu trước làm cho người đọc khó theo dõi, thiếu hệ thống đâm ra khó hiểu. Và theo tôi có thể bỏ chương truyền thống văn hoá Huế (chương 3). Chương này chỉ là một bản tóm tắt những chương sau mà thôi. Nếu có những chi tiết các chương sau chưa nói tới thì có thể chèn thêm chứ không nên để riêng ra một chương. 3. Tác giả không phân biệt văn học nghệ thuật lấy đề tài Huế với văn học nghệ thuật Huế. Văn học nghệ thuật lấy đề tài Huế chưa chắc đã là văn học Huế (ví dụ như trước đây người Pháp đã viết nhiều cuốn sách về Huế nhưng những thứ đó đâu có thuộc văn học nghệ thuật Huế). Trái lại có những tác phẩm không hề nói đến Huế nhưng lại rất Huế (ví dụ như thơ Tố Hữu viết về Việt Nam và thế giới). Huế hay không là ở tình tự Huế, ngôn ngữ và cách nói riêng của Huế. Tức là tính cách bản sắc riêng của văn học nghệ thuật Huế. Bản tuồng “Nghêu Sò Ốc Hến” không hề nói một địa danh nào của Huế, nhưng xem qua ai cũng nói nó là Huế. Trong “Huế giữa chúng ta” tác giả đã kê vào nhiều sự kiện văn hoá ít có “tính Huế”. 4. Chương “Huế qua các thời kỳ lịch sử”, tác giả trình bày khái quát một cách chung chung có thể đưa vào bất cứ một cuốn sách nào. Đưa chương đó làm gì nếu không phải là để giúp cho người đọc hiểu được sự phát triển của văn hoá Huế với những nét độc đáo của nó? 5. Tác giả đã bỏ quên nhiều sự kiện điển hình độc đáo trong quá trình phát triển văn hoá Huế: Thơ văn Ông già Bến Ngự, Báo “Tiếng Dân” - tờ báo của dân đầu tiên ở Trung Kỳ (tức là không phải của Nhà nước thực dân), những nhà thơ tiêu biểu của Huế như cụ Ưng Bình, nhà thơ châm biếm Nguyễn Khoa Vy, phong trào thơ mới với những tác giả nổi tiếng Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Phan Văn Dật, Xuân Tâm… Tác phẩm giới thiệu phong trào thơ mới đầu tiên ở Việt Nam của Hoài Thanh “Thi nhân Việt Nam” cũng được viết và in ở Huế. Nhưng tiếc nhất là “Huế giữa chúng ta” mà thiếu đi phong trào đấu tranh yêu nước ở các đô thị miền Nam của tuổi trẻ Huế. Qua phong trào nầy tính chất văn hoá của Huế được bộc lộ rõ nhất. Ngày nay đọc lại những báo “Ngày mai”, “Mặt trận văn hoá Dân tộc miền Trung”, thơ văn của Trần Quang Long chúng ta vẫn còn thấy thích thú. Cái sức nặng của cái gọi là “Văn hoá Huế” đương đại không những nó làm cho nhẹ bớt cái chất “cổ” của văn hoá truyền thống mà nó còn là một thực thể chứng minh cho sự thành công trong việc phát huy truyền thống. 6. Trong việc sử dụng tài liệu tham khảo xin góp với tác giả hai ý kiến. Trong chương viết về âm nhạc tác giả đã tham khảo khá nhiều trong cuốn La Musique Vietnamienne Traditionnelle (P.U.F. Paris 1962) của Trần Văn Khê và cuốn “Những vũ khúc…” của hai cha con ông Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, nhưng tác giả không nêu trong phần viết cũng như trong phần sách tham khảo. Ý kiến thứ hai: không nên nêu tham khảo tác phẩm của chính mình nếu vấn đề mình đề cập đến có thể lý giải được trực tiếp. 7. Nhân đây tôi cũng xin có vài điều thắc mắc thêm với Nhà xuất bản: Bản thảo cuốn “Huế giữa chúng ta” đã nằm trong kế hoạch xuất bản ngót ba năm nhưng tại sao sách viết về văn hoá Huế như thế lại không có một tấm bản đồ, không có một tranh ảnh nào minh họa? Vì thiếu những phụ bản nầy mà nội dung cuốn sách mất đi một nửa hiệu quả. Việc in ấn có nhiều sai sót nhưng không rõ vì lý do gì không có bản đính chính! Người đọc mong những lần xuất bản sau phải bổ sung phần phụ bản quan trọng ấy và có phần đính chính cẩn thận. *** Tôi cũng nghĩ, đối với một tác giả bình thường nào đó thì người đọc được đọc một cuốn như “Huế giữa chúng ta” họ đã thích thú thỏa mãn lắm rồi và không đòi hỏi gì nữa cả. Nhưng đối với giáo sư Lê Văn Hảo, với khả năng đã sẵn có, với tài liệu dồi dào trong tay, với những bạn bè đồng điệu đông đảo của giáo sư, người ta muốn được giáo sư có những công trình lớn hơn và đầy đủ hơn. (Không có nghĩa là có độ dày nhiều trang hơn). Trong lúc chờ đợi công trình ấy, cuốn “Huế giữa chúng ta” vẫn là một món quà tinh thần chưa từng có đối với mảnh đất có truyền thống văn hoá lâu đời này. Huế, ngày 20-11-1984 N.Đ.X. (15/10-85) ----------- 1. Nxb Sudestasie, Paris 1982. 2. Nxb UNESCO Paris 1982. |
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.