Tâm sự về đổi mới thơ của một nhà thơ thế hệ chiến tranh

10:12 28/07/2016

VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)  

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Ảnh: internet

1. Tuổi trẻ

Có một thế hệ nhà thơ trên dưới 30 tuổi trở về Hà Nội sau chiến tranh thống nhất đất nước tham gia Trại sáng tác văn học quân đội trước khi bước vào Đại học Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Lúc đó nhà thơ Hữu Thỉnh 34 tuổi, Nguyễn Đức Mậu và tôi chưa đến 30 tuổi. Nói tuổi để thấy rằng, tuổi trẻ luôn háo hức khám phá, sáng tạo, đi tìm cái mới cho thơ. Khi ấy chúng tôi đã nghĩ, phải thoát khỏi “dàn đồng ca thơ”, và ngoài thơ ngắn, chúng tôi viết Trường ca, một thể loại mà chính chúng tôi phải mày mò tìm hiểu từ những người đi trước và từ lịch sử trường ca của dân tộc và phương Tây. Kết quả là 3 trường ca viết về chiến tranh, chiêm nghiệm về chiến tranh, nhìn lại cuộc chiến tranh đã ra đời từ Trại sáng tác văn học quân đội. Đó là Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, và Con đường của những vì sao (Trường ca Đồng Lộc) của tôi. Cả 3 trường ca này cùng với Những người đi tới biển của Thanh Thảo đều được phát hành trên vạn bản và được độc giả cả nước hào hứng đón nhận. Thời đó, chúng tôi luôn nói với nhau “phải đổi mới thơ”, nghĩa là đổi mới về cách nhìn, đổi mới về thi pháp…

Tôi khởi xướng “Thơ đời thường” để thoát khỏi dòng thơ tụng ca tràn ngập trước đó bằng bài thơ Thành phố của đời thường, và khi đi lên Cao Bằng viết về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 17 tháng 2 năm 1979 thật oanh liệt và đau thương, khi đi ngược dòng người gồng gánh trẻ con chạy giặc, tôi nghĩ đến sứ mệnh của “Thơ đời thường” và đã viết như một tuyên ngôn cho thơ mình: “Thơ bây giờ không phải ở trên cao/ Bay lượn màu mè như bóng thả/ Để mỏi mắt em nhìn càng xa lạ/ Lúc quay về mưa nắng chẳng gì che/ Thơ bây giờ cho em trong mồ hôi/ Trong tàn lửa chiến tranh chưa chịu tắt/ Áo đoàn quân cũng là màu áo mặc/ Của những câu thơ gan góc xẻ chiến hào/ Em nghỉ ngơi sau mỗi giờ làm việc/ Thơ đứng ngồi bên cạnh, dáng cao cao”. Nghĩa là thơ phải luôn đứng về phía thân phận con người, chia sẻ với con người. Và có lẽ đỉnh điểm trong dòng “Thơ đời thường” của tôi là bài Tản mạn thời tôi sống.

2. “Tản mạn thời tôi sống” - Đổi mới không dễ

Những năm 80 của thế kỷ trước, đời sống đã có nhiều khó khăn, thất vọng và hoài nghi. Bài Tản mạn thời tôi sống là một cách nhìn khác, một sự nhận thức lại đời sống hiện thực của đất nước, một cách nhìn đưa người đọc đến với sự thật và những tâm sự ngổn ngang, không ít hoang mang thời bấy giờ. Bài thơ nói hộ cho nhiều người đương thời những tâm sự và bức xúc mà không dễ nói, thậm chí không được nói. Trong bài thơ cũng có nhiều yếu tố mới mẻ về giọng điệu, nhất là chất liệu thơ. Ở đây người ta không thấy giọng tụng ca hào sảng, người ta thấy giọng tâm tình, một tâm sự về thế cuộc. Còn chất liệu thơ thì gắn với đời thường, với hiện thực bừa bộn của những năm 80 thế kỷ trước, với tinh thần: “Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng/ Ai giả dối rồi biết mình lầm lỗi/ Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi!...”

Đúng là vào một đêm hè tại Vân Hồ (Hà Nội), tôi đã viết xong bài thơ Tản mạn thời tôi sống vào lúc 1 giờ sáng. Viết xong, đọc lại thấy mình bị ớn lạnh. Tôi gọi nhà thơ Nguyễn Hoa ở cùng phòng dậy pha trà và đọc cho Nguyễn Hoa nghe để xem bạn nói gì. Nguyễn Hoa nghe xong, im lặng đến nổi da gà. Một lát sau mới nhận xét là bài thơ gây chấn động mạnh cho anh, một bài thơ mà anh chưa từng thấy trong thơ hiện tại, nhưng anh sợ khó được đăng lên báo. Một tuần sau, trong cuộc họp lớp nhà văn quân đội tại Vân Hồ do nhà văn Nguyễn Trọng Oánh Tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội chủ trì, tôi đã đọc bài thơ này, và ông Oánh cũng khẳng định là không thể in trên tạp chí của ông. Mấy tháng sau, trong một cuộc gặp gỡ 3 nhà báo nước ngoài (Việt kiều) tại báo Văn Nghệ, tôi đã đọc bài thơ này thay cho câu trả lời mà họ đặt ra: Các nhà văn Việt Nam có né tránh sự thật hay không? Bài thơ đã được mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt, và nhà văn Nguyễn Tuân gật gật đầu, tự tay rót cho tôi một chén rượu. Ba nhà báo nước ngoài xin tôi bài thơ để đăng báo. Tôi tặng họ, nhưng cẩn thận đề nghị họ để báo trong nước in trước. Quả thực sau đó một tuần, bài thơ được in trang trọng trên báo Văn Nghệ số 38 ra ngày 19/9/1981. Nhà thơ Hoàng Minh Châu trực Ban Biên tập lúc đó hào hứng nói với tôi là bài thơ rất được bạn đọc yêu thích, báo vừa ra đã bán hết, nhiều người đến tòa soạn hỏi mua báo nhưng không còn báo để bán. Quả là đúng như vậy, bài thơ được truyền đi nhanh chóng vào cả các trường đại học, nhiều người chép tay lưu giữ, học thuộc dù nó khá dài - gần 80 câu. Bỗng tôi rất bất ngờ khi ghé tòa soạn báo Quân đội Nhân dân thấy bài thơ của tôi trên tờ báo Văn Nghệ đó bị gạch chân bằng mực đỏ nhiều câu với những dấu chấm hỏi, chấm than bên cạnh. Vậy là bài thơ “có vấn đề”. Tôi ghé tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà văn Nguyễn Trọng Oánh lạnh lùng trách tôi: Đã bảo đừng in, ông lại cứ in; bây giờ biết làm sao? Tôi ngơ ngác trở về Vân Hồ. Nhà thơ Hữu Thỉnh lúc đó là Lớp trưởng kiêm Bí thư chi bộ lớp nhà văn chúng tôi ở trường Viết Văn Nguyễn Du nói với tôi là bài Tản mạn thời tôi sống “có vấn đề nghiêm trọng”. Hữu Thỉnh khẳng định: “Ông viết: Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng/ Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá, là ông đã phủ nhận thần tượng, còn nói gì nữa”. Và trong một cuộc họp nội bộ, người ta đã chỉ trích bài thơ tôi để quy tội bài thơ “dễ bị địch lợi dụng”, đến nỗi người trung thực như Nguyễn Hoa bạn tôi không thể chịu nổi, đã phát biểu trong cuộc họp: “Nếu đồng chí Tạo có tội phải vào tù, tôi là bạn, tôi sẽ đưa cơm đến nhà tù cho đồng chí ấy. Nhưng đồng chí Tạo không có tội. Đồng chí ấy chỉ nói lên một sự thật đau đớn mà thôi”. Trong khi đó, báo Văn Nghệ bỗng đăng một bài nhìn lại thơ trên báo nhà, và tự phê là đã cho đăng bài thơ của tôi, “một tác giả đang được bạn đọc yêu thích mà lại có biểu hiện lệch lạc, non tay”. Cách tự phê bình như vậy trái với thái độ hào hứng ban đầu, như là để chuẩn bị nhận lỗi với sự phê bình của trên sắp tới. Tôi nghe nhiều thông tin là sẽ “đánh” bài thơ Tản mạn thời tôi sống. Để tự vệ, tôi ngồi viết vào sổ tay “Bức thư gửi Bộ Chính trị và ông Lê Đức Thọ” dài 10 trang, chứng minh tôi là một nhà thơ quân đội yêu nước và chỉ nói lên sự thật dù là sự thật đau đớn, nhưng cả dân tộc phải vượt qua như một quy luật tất yếu. Nhưng bức thư đã không phải gửi đi. Nghe đồn là Liên Xô đã dịch và in bài thơ Tản mạn thời tôi sống, nên trong nước đã dừng lại việc định “đánh” bài thơ này. Chả là hồi đó, hai nước vừa ký hiệp định Việt - Xô. Nhưng rồi Quân đội vẫn không để tôi yên ở Hà Nội. Có ý kiến cho rằng, nếu để Nguyễn Trọng Tạo ở lại Tổng cục Chính trị, nhỡ nó lại làm một bài Tản mạn nữa thì sao? Thế là tôi “được” điều động đi nhận nhiệm vụ mới: Trở lại Cục Chính trị Quân khu Bốn.

5 năm sau, đến thời kỳ “Đổi mới”, bài thơ của tôi được in lại, được phát trên đài, và năm 1987 chính báo Văn Nghệ đã đăng bài của Phạm Quang Long nhận định rằng: “Dòng văn học Đổi mới đã được khơi nguồn từ nhiều năm trước Đổi mới, với bài thơ Tản mạn thời tôi sống của Nguyễn Trọng Tạo”. Có thể nói, bài thơ đó là một sự kiện “nguy hiểm suýt chết người” đối với tôi. Và quả thật, tôi đã phải xa Hà Nội trọn 15 năm mới quay lại được. Thời gian ấy bằng thời gian lưu lạc của Thúy Kiều trong kiệt tác của Nguyễn Du. Bây giờ nhắc lại chuyện này, tôi vẫn còn thấy ớn lạnh. Nhưng đọc lại bài thơ, tôi càng thấy tin ở sự anh minh của công chúng, và tin ở mình hơn: “Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa/ Như thời đã đi qua, như thời rồi sẽ đến…”.

3. Đổi mới theo xu hướng phương Tây và xu hướng phương Đông

Sau 1975 ngoài sự nôn nóng đổi mới về thi pháp, tôi là người muốn đổi mới ngay về tư tưởng trong thơ, tất nhiên không phải theo cách áp đặt, anh muốn tư tưởng là có tư tưởng. Từ cuối những năm 70, thơ tôi đã động chạm đến rất nhiều thứ. Khi chủ trương “thơ đời thường”, tôi đã có độ lùi để xem lại giá trị của cái tháp nước: “Có thể cái tháp nước rất gần/ Khi anh mở vòi nước ra, gặp nước”, còn nếu anh mở vòi nước ra mà không có nước thì nó chẳng có ý nghĩa gì, nó không phải là cái tháp nước. Cũng như cả một cơ chế bên trên, chỉ có ý nghĩa khi nó thiết thực với cuộc sống của cộng đồng mà nó đại diện. Tư tưởng này cũng là sự hợp lý, biện chứng thôi, nhưng từ lâu chúng ta đã quá quen một lối nhìn xuôi chiều, bây giờ nhìn ngược lại mới tạo ra được cách nghĩ mới, tư tưởng mới. Đến Tản mạn thời tôi sống, tôi đã đặt những vấn đề thời đại: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ câu trả lời thật không dễ dàng chi”. Lúc ấy người ta cứ tưởng đã trả lời được hết thảy các câu hỏi của cuộc sống, nhưng câu thơ của tôi xuất hiện, đã lật lại vấn đề hoàn toàn khác. Đến bài Nhịp điệu Tây Nguyên 1983, tôi lại kêu gọi sự phá vỡ khuôn khổ gò bó con người: “Ta thoát khỏi ta - như đứa trẻ thoát áo quần quá chật”... Đến tập Thư trên máy chữ... là cả một sự trăn trở về quan niệm nghệ thuật để nêu ra tư tưởng phản kháng với loại nghệ thuật mơn trớn sự giả dối một cách mạnh mẽ: “rồi một ngày giả dối sẽ nổ tung - bởi những hạt-sự-thật... và khi ấy những câu hỏi bây giờ - được thay thế bằng những câu hỏi khác”. Đấy là thời thơ tôi không chỉ là cái nhà quê mà còn muốn đưa một đời sống hiện đại, một quan niệm hiện đại vào thơ, vì chúng ta đang sống ở thời hiện đại với tâm linh nhà quê. Thời ấy làm như vậy cũng là một sự tìm tòi đầy can đảm. Bởi thơ không chỉ thay đổi hình thức cho hiện đại mà chính tư tưởng của nó cũng phải hiện đại, phải rất mới.

Đổi mới hình thức thơ thì có kiểu đổi mới theo phương Tây, cũng có kiểu đổi mới theo phương Đông. Những đòi hỏi về cách tân hình thức thơ đeo đẳng trong tôi, mọi cánh cửa đều mở rộng cho sự tìm tòi. Thời kỳ đầu tôi đổi mới thơ theo kiểu phương Tây. Nhưng từ 1990 thì khác, tôi đã có sự “nhận thức lại”: phải làm mới thơ bằng tư duy phương Đông và ngôn ngữ của chính dân tộc mình.

Đồng dao cho người lớn là kết quả của sự tìm tòi đổi mới thơ theo truyền thống phương Đông. Đó là thời tôi ở Huế, tự nhiên trong không gian khói sương của tâm thức Huế, thơ tôi có sự chuyển lớn, ngôn ngữ mờ nhòe đi rất nhiều, dù tư tưởng vẫn quyết liệt như trước, nhưng chạm tới bản chất hơn: “có câu trả lời biến thành câu hỏi”. Thơ giai đoạn này có vẻ “thiền” hơn, nó hướng tới những “trạng thái sống” huyền bí và xa xăm. Và tôi cũng bắt đầu quan tâm tới vấn đề tình dục là một vấn đề rất lớn và rất tế nhị của thơ. Tôi viết về vấn đề này thường kín đáo kiểu phương Đông như: “anh nín thở đến tột cùng máu ứa - cột lửa phun nham thạch phì nhiêu - rồi chết lịm trong vỗ về mơn trớn - mười ngón dài thon của gió chiều”, chứ không viết rõ ràng hay thô ráp như lớp trẻ sau này. Có thể nói thế này, nếu người ta nhìn Huế như một kinh thành ánh sáng, thì tôi nhìn nó trong sự bí ẩn của bóng tối. Tôi nhìn từ phía bóng tối, nên thơ tôi thường chứa đựng tinh thần phản kháng, đôi khi xa lạ với dòng thơ chung. Vì thế mà nhà thơ Vũ Cao đã có một nhận định có vẻ như khích lệ cho thơ tôi: “Thơ anh không nhằm phục vụ một nhiệm vụ hoặc cổ vũ một trào lưu gì. Anh như một người lẻ loi đứng trên các nẻo đường, mặc cho các lớp người cứ trùng điệp ồn ào qua lại… Thật khó có thể xếp Nguyễn Trọng Tạo vào một lớp nhà thơ nào. Ngòi bút của anh thoải mái nói những điều không phải dễ nói ra”.

Có thể do tôi yêu thích những nhà thơ trẻ nên dễ sống hòa nhập với cái trẻ, cái mới. Có thể do tôi đã lấy nhịp đồng dao 4 chữ của trẻ con để làm nên nhịp đồng dao 8 chữ cho người lớn nên giọng thơ cũng trẻ ra. Và quả thật Đồng dao cho người lớn cũng đã tạo được một hiệu ứng đáng kể cho cảm hứng thơ ca của một số đồng nghiệp đương thời. Cái giọng “đồng dao mới” này đã tạo nên một ấn tượng mới cho thơ tôi như một sự tìm tòi đổi mới theo xu hướng phương Đông mà tôi luôn trăn trở và tâm đắc: “Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ/ Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió/ Có thương có nhớ có khóc có cười/ Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi”.

4. Nhìn lại 30 năm Đổi mới

Xã hội đổi mới thì Văn học Nghệ thuật không thể đứng yên. Đã làm thơ thì chả ai muốn thơ mình mãi dẫm chân tại chỗ. Làm thơ là đi về phía trước, đi cùng thời đại, thậm chí đi trước thời đại. Nhưng theo tâm lý học sáng tạo thì không phải người nào cũng có sức sáng tạo vĩnh cửu cả, có người mạnh thời đầu, có người mạnh thời giữa, có rất ít người mạnh cả đời, họa chỉ có người đó là thiên tài. Nhưng tuổi trẻ bao giờ cũng để cho xã hội gửi vào đó niềm hi vọng to lớn nhất. Đổi mới cũng như những đợt sóng, hết đợt này đến đợt khác trong biển đời dào dạt. Như nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch từng viết về sóng: “Biết nửa vời tan vỡ vẫn dâng lên”, đó cũng là ý chí, là lòng can đảm của những con người dám sáng tạo ra cái mới cho xã hội.

Nhìn lại 30 năm Đổi mới, Thơ có thành tựu của nó. Điều đó không thể phủ nhận. Tuy nhiên, một số tác giả có nguy cơ hạ thấp tính thẩm mỹ trong thơ, một số khác quá sa đà vào con đường rắc rối, bí hiểm, lại có số khác nhân danh “đổi mới” nhưng thực ra không nắm vững căn bản, chưa thoát được tính hiếu kỳ, háo danh. Vì thế, thơ đổi mới hiện nay đang bừa bộn, đứng trên nhiều ngả đường và không ít sai lầm, thậm chí có xu hướng nhầm lẫn, đánh mất vẻ đẹp của ngôn ngữ Việt. Và cũng nên tránh những ngộ nhận không đáng có. Cứ tưởng mình đã chạy được mấy km mỗi ngày, thực ra là chỉ đang chạy trên chiếc máy tập thể dục đặt cố định ở một chỗ đâu đó mà thôi.

Nhưng chúng ta vẫn phải tin, thơ vẫn đang chuyển động, đang thoát hiểm khỏi sự bế tắc để mở ra với thế giới rộng lớn.

Hà Nội, 2/6/2016
N.T.T
(TCSH329/07-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?

  • PHONG LÊIĐến với tôi một nhận xét: Đại hội nhà văn lần thứ VI, tháng 4- 2000, do việc bầu đại biểu từ 8 khu vực, nên vắng hẳn đi những người có thâm niên nghề nghiệp cao. Đặc biệt là những vị có sự nghiệp đáng trọng trên các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những người có vị thế bậc thầy trên nhiều phương diện của kiến thức đối với các thế hệ viết trẻ.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Tiếp theo Sông Hương số 253 tháng 3/2010)

  • HỒ THẾ HÀNhìn vào tiến tình văn học đương đại Việt Nam, căn cứ vào các giải thưởng văn học, các hiện tượng văn chương nổi bật trong hơn hai thập kỷ qua, - so trong tương quan các thể loại, nhiều người không khỏi lo lắng và lên tiếng báo động về sự xuống cấp của thơ.

  • TRẦN THIỆN KHANHSau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm.

  • BỬU NAMThiên nhiên là “không gian sống” và “không gian tâm tưởng” của con người và thi sĩ phương Đông, nó đã lắng sâu trong vô thức của họ và đã trở thành một loại “không gian văn hóa” và là một hằng số quan trọng trong thơ ca phương Đông.

  • THANH THẢOMỗi nhà văn đích thực đều là mỗi nhà không tưởng ở những mức độ khác nhau. Tônxtôi là nhà văn vĩ đại, đồng thời là nhà không tưởng vĩ đại.

  • THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.

  • NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.

  • FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)

  • HOÀNG NGỌC HIẾNTôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức “Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?”(1)

  • ĐÔNG LACon đường đến thành công thường rất khó khăn, với Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.

  • TRẦN HUYỀN SÂMMỗi thời đại đều mang lại một quan niệm văn chương khác nhau. Đối với cha ông xưa, họ không hề có ý định lập ngôn, lại càng không chủ trương xây dựng cho mình một học thuyết có tính hệ thống.

  • CAO HUY HÙNGChủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà cả bạn bè trên khắp thế giới đều giành tình cảm trân trọng đặc biệt đối với Người. J.Stésron là nhà sử học người Mỹ một trong số những người đã dày công tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.