Ảnh: Internet
Nguyễn Du viết Truyện Kiều Là để trút cả bầu tâm sự: “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ”(1) (Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai). Thúy Kiều hai lần mặc áo xanh con ở Hai lần làm kỹ nữ chốn yên hoa Liệt nữ không thờ hai chồng Bắt phong trần phải phong trần Đoạn trường thế ấy còn vần chưa tha. Cậu ấm Nguyễn sớm bị rứt ra khỏi màn loan trướng huệ Ném vào cát bụi phong ba. Tôi trung không thờ hai chúa Vị cựu thần nhà Lê Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời? Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều Mượn số kiếp nàng Kiều mà cảm thương thân thế Nguyễn khóc Kiều là khóc chính cho ông Nguyễn chiêu tuyết Kiều là chiêu tuyết cho ông. Khoanh tay trông trời Rũ áo nhìn đất Nguyễn chỉ lặng im “Vâng! Dạ!”(2) Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ “tiết” Giữ vẹn tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời!? “Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai”? Tôi chợt hiểu ra mới ngoài ba mươi tuổi Mái đầu Người đã trắng xóa như mơ!(3) Tiên Điền, 8-10-1999 Bên bờ sông Tiền Đường, 15-7-2005 (Nguồn: Tuyển tập 700 năm thơ Huế, H. Thuận Hóa 2007) ------------------- (1) Thơ chữ Hán của Nguyễn Du. (2) Có lần, Nguyễn Du bị vua Minh Mạng quở: “Nhà nước dùng người cốt chọn người tài giỏi. Ngươi cùng Ngô Vỵ đã được cân nhắc lên hàng á khanh, biết thì thưa thốt, sao lại khoanh tay chỉ biết dạ dạ vâng vâng”. Niềm u uất này kéo dài cho đến tận chết. Trước khi qua đời, vì bị nhiễm bệnh dịch tả từ Xiêm (Thái Lan) truyền sang, Nguyễn Du sai người nhà sờ lên người ông. Người nhà thưa: “Đã lạnh đến đầu gối”. Ông bảo “Được, được” rồi tắt thở, không trối lại điều gì. Ông chết trong cô đơn không ai vấn tang, đưa tang, lấy cớ sợ bệnh truyền nhiễm. Vua Minh Mệnh chỉ đưa đồ phúng, không viếng. Mạn tang, Nguyễn Ngữ - người con trai thứ 4 đưa hài cốt cha về táng dưới chân núi Hồng. (3) Chi tiết này có chép trong Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền. LỜI BÌNH CHÚ CỦA TÁC GIẢ Phần tư tưởng cốt tủy chi phối toàn bộ Truyện Kiều của Nguyễn Du là chữ “tiết” của Nho gia. Tuy chỉ là một võ quan nhỏ tập ấm với người cha nuôi họ Hà biên trấn ở Thái Nguyên sau khi đỗ tú tài, Nguyễn Du vẫn nghiễm nhiên là cựu thần nhà Lê. Người đã từng trốn ra Bắc theo Lê Chiêu Thống sang Tàu phục quốc, nhưng không thành, bị quan quân nhà Tây Sơn tống ngục. May nhờ người anh trai đã cộng tác với chính quyền mới nên thoát nạn. Nguyễn mai danh ẩn tích dưới lốt “Hồng Sơn liệp hộ” (phường săn núi Hồng). Vì Nguyễn Du là chú ruột một bà phi(1) vua Gia Long, vào hàng quốc trượng của nhà Nguyễn, nên khi Gia Long tuần thú ra Bắc, người buộc phải đón và theo phò giá Gia Long, được Gia Long bổ nhiệm đặc cách luôn làm tri huyện Phù Dung (Phù Cừ, Hưng Yên) (chức vụ này thường giao cho các cử nhân trong lúc Nguyễn Du chỉ mới đỗ tú tài); rồi người được đặc cách phong làm cai bạ Quảng Bình, vời về triều đặc cách làm đến tham tri bộ Lễ, được cử làm chánh sứ những hai lần. “Vị cựu thần nhà Lê - Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn - Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời!?”. Đường hoạn lộ thẳng băng, nhưng Nguyễn đau lắm, đau nỗi đau của nhà nho thất tiết. Trong danh phận “hàng thần lơ láo”, bạn đồng liêu quay mặt bỉ báng, kẻ sĩ Bắc Hà khinh rẻ, Nguyễn sống trong cô độc buồn nản. Phải ngồi trên lưng cọp, tiến thoái lưỡng nan “Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ tiết - Giữ vững tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời?” Kẻ sĩ thức thời như Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích trước đó thì điềm nhiên vận triều phục mới ung dung bước thẳng vào tân trào Tây Sơn cộng tác với một chính thể mới tiến bộ là một nhẽ. Đằng này, Nguyễn bị ràng buộc quá sâu sắc bởi chữ “tiết” nên từ bỏ nó đâu dễ một sớm một chiều. Thế là phải đánh vật với nỗi đau, u uất đến tận khi chết “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - Giật mình mình lại thương mình xót xa” là nỗi đau máu thịt có thật của Kiều hay chính Nguyễn Du? Điều tâm sự này phổ vào tập Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm khá đậm, nhất là bài “Long thành cầm giả ca” nuối tiếc ngậm ngùi cho triều Tây Sơn cũ trong vô vọng qua số phận tiều tụy của một ca nương. “Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai”, mà nói ra được cũng dễ gì có ai thèm nghe, ai thèm thông cảm cho. Tâm sự đắng chát đó liền bắt gặp tần số cộng hưởng với cuộc đời ba đào của nàng Kiều. “Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi - Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều. Theo quan điểm Khổng Mạnh, vấn đề cốt tử, với người đàn bà là chữ “trinh”, với người đàn ông là chữ “tiết”. Thân thế thì khác nhau nhưng số phận thì giống nhau. Hai ta đều là điếm cả thôi mà, một bên là đĩ thể xác một bên là điếm linh hồn. Vâng, làm đĩ điếm bất đắc dĩ “Như nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho đục được mình ấy vay”. Đĩ là đĩ thể xác, còn tinh thần thì lại rất trinh trắng. Tôi trung không thờ hai chúa, liệt nữ không thờ hai chồng. Thế là từ một chuyện lá cải Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã biến thành một kiệt tác qua bàn tay tái tạo của người thợ trời(2) với sứ mệnh giãi bày chữ tiết của mình cùng hậu thế, là cách tốt nhất để chiêu tuyết cho mình trước những sàm báng của thế nhân về thân phận bất đắc dĩ phải làm điếm chính trị của mình. Bi kịch của Nguyễn Du là bi kịch của một nho sĩ suốt đời không thể tìm ra được phương hướng. Chính nỗi đau phát phẫn trước thư trong khi viết tiểu sử cho chính mình, Nguyễn đã làm nên tập đại thành “kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm” (Nhữ Bá Sĩ)(3). Truyện Kiều là tự truyện tâm linh của Nguyễn Du bởi trữ tình chân chính bao giờ cũng mang tính chất tự truyện là vậy. Năm 1999, từ Sài Gòn, tôi lại hành hương về Tiên Điền cố hương viếng ông Tổ của văn chương Việt. Cùng đi có bạn thơ Xuân Hoài, lúc đó là Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin. Chúng tôi thắp hương trước mộ người. Tôi khấn “Thưa cụ, cụ viết Truyện Kiều cho ai?”. Trong trầm trầm hương khói, tôi nghe rõ âm thanh tuy rất nhỏ “Tôi viết cho tôi”. Trúng ý tôi rồi. Thế là từ mộ Nguyễn Du lên mộ Hải Thượng Lãn ông ở Hương Sơn, ngồi trên ô tô tôi lẩm nhẩm thành lời. Xuống xe, tôi chép lại với lời đề tặng bạn thơ Xuân Hoài. Xuân Hoài đem về đăng vào báo Hà Tĩnh cuối tuần. Mấy năm sau, tôi đưa cho Gia Dũng. Đọc xong, Gia Dũng lắc đầu. Bế Kiến Quốc đến chơi nhà, tôi đưa cho nhà thơ lúc ấy là tổ trưởng thơ báo Văn Nghệ. Bế Kiến Quốc tần ngần “quyết định đăng hay không lại ở người khác”. Hoàng Liên càm ràm “thôi dẹp đi ông, quan điểm tréo ngoeo cẳng ngỗng với tư tưởng chính thống ai người ta chấp nhận cho”. Tôi lén gửi báo nhà chùa Giác Ngộ. Mấy sư đăng ngay với tít mới “Nghĩ tưởng bên mồ Nguyễn Du” cùng bức ảnh chúng tôi đứng thắp hương trước mộ người. Rồi tờ web Khởi Nguồn ở Hoa Kỳ xin bài, tôi gửi họ, được đăng liền với bài trí rất trang trọng, được bạn đọc bốn phương ở hải ngoại đồng cảm đồng thuận suốt 5 năm qua. Và, khi Hội đồng biên tập làm cuốn 700 năm thơ Huế, cùng với bài Tạ lỗi cố nhân, bài Tâm sự Nguyễn Du được đưa vào tuyển tập sang trọng này. Mùa hè năm 2005, tôi sang Trung Quốc, đến Vô Tích, Lâm Tri, Hàng Châu… “nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương” của đời Kiều luân lạc. Tôi đã tìm đến nghiêng mình bên bờ sông Tiền Đường “ầm ầm tiếng sóng” nơi Kiều trầm mình. Tôi bồi hồi lần theo dấu vết Nguyễn Du cách đó 175 năm (2005) đã từng đi sứ qua đây: Nguyễn thăm miếu thờ người anh hùng dân tộc Nhạc Phi, viếng Hàn San tự cổ kính với tiếng chuông nửa đêm nghìn năm còn vang vọng, người đề thơ bên tượng gian thần Tần Cối… Có điều khác nhau: Nguyễn là chánh sứ đi công du, Thái mỗ tôi là Phó Thường Dân Nam Bộ đi tư du. Nguyễn đi bộ, đi thuyền, đi ngựa mất 3 tháng rưỡi; Thái tôi cưỡi máy bay lướt gió mây mất chỉ có 4 tiếng từ Sài Gòn sang. Những lúc trà dư tửu hậu, tôi thường đem chuyện Nguyễn Du viết Kiều ra nói, được khá nhiều bậc trí tán thưởng. Tôi nghĩ đã đến lúc, chúng ta nên có lòng tự trọng và thật sự cầu thị xét lại văn học cổ điển theo quan điểm mới, trả Céza về cho Céza chứ không nên ra rả trên bục giảng nhồi nhét vào óc con trẻ “Nguyễn Du đã đứng về phía quần chúng lao khổ bênh vực cho quyền sống, quyền làm người của họ”, “Nguyễn Du là người phát ngôn cho quyền lợi của nhân dân lao động” theo tinh thần văn học phục vụ chính trị. Đành rằng mang một trái tim lớn của nghệ sĩ lớn, Nguyễn Du đã đồng cảm trùm tình thương xuống cõi nhân gian khốn khổ này. Chính nhà phê bình Hoài Thanh giảng Kiều rất hay nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều”, mà không dấn lên thêm được bước nào khai sáng cho vấn đề vì sao Nguyễn Du viết truyện Kiều!? Trong văn học cổ điển thường thì tư tưởng tác phẩm lớn hơn tư tưởng tác giả. Nhưng dẫu sao thực sự đây lại là lời Nguyễn làm trạng sư tự bào chữa hùng hồn, kín đáo và nghiêm túc nhất trước cái bất nhẫn của cuộc đời đối với ông. Giảng Truyện Kiều và Nguyễn Du như xưa nay chỉ hớt ngọn thôi, không đi đến tận gốc của vấn đề. Đối với chuyện văn chương nghìn năm thiên cổ sự, việc sửa sai không bao giờ muộn cả. Đó là trách nhiệm của chúng ta với muôn đời hậu thế. Xin đừng làm Nguyễn Du buồn đau thêm nữa! Xin đừng tiếp tục ru ngủ con cháu chúng ta bằng cái sai lầm tai quái như thế nữa! Là người nghiên cứu văn học, đã từ lâu tôi không quan tâm lắm đến câu cảm thán “Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” như hầu hết mọi nhà nghiên cứu từng xuýt xoa mà chỉ chú ý đến câu thơ nhỏ nhoi định mệnh “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” lẩn quất trong thơ chữ Hán của người. Từ đó phăn nó ra… Sydney, 29-7-2010 T.D.H (260/10-10) ---------------- (1) Tức phi tần Nguyễn Thị Uyên, con gái Nguyễn Trừ (1760-1809) tri phủ Nam Sách - anh trai thứ 5 của Nguyễn Du. Nguyễn Trừ là con bà trắc thất thứ 5 Nguyễn Thị Xuân (quê Tiêu Sơn, Tương Giang, Bắc Ninh) của Tể tướng Nguyễn Nghiễm. Nguyễn Trừ ở lại quê ngoại không về Tiên Điền, lập ra một chi nhánh họ Nguyễn ở Bắc Ninh. (2) Trong giao lưu văn hóa nhân loại, việc vay mượn đề tài, chủ đề, cốt truyện, điển cố, ngôn ngữ… là việc bình thường. Sếchxpia chẳng đã từng mượn đề tài từ Đan Mạch cổ xưa để viết Hămlét bất hủ, mượn truyện Ý để viết nên tình sử Rômêô và Juyliét sống mãi đó sao? Nguyễn Du mượn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân viết Truyện Kiều, cũng như kiến trúc sư Nguyễn An tù nhân quân Nguyên Mông đời Trần thiết kế ra quần thể Thiên An Môn hoành tráng; cũng như Mạc Đỉnh Chi đời Trần Anh Tông đi sứ Yên Kinh (Bắc Kinh) sang Bình Nhưỡng lấy cháu gái sứ thần Cao Ly đẻ ra một dòng ở bên ấy năm 1213 - vay cả dòng máu thì sao? (Xem thêm GIAI THOẠI KẺ SĨ VIỆT NAM của Thái Doãn Hiểu - Hoàng Liên, nxb Văn hóa - Dân tộc, Hà Nội 1997, trang 314). (3) Trong việc viết Truyện Kiều, truyền thuyết kể rằng, mỗi lần quan Hầu Nguyễn Tiên Điền ra Thăng Long thường gối đầu lên đùi cô đào Xuyến nghe nàng “lẩy” từng câu Kiều và hai người chuốt lại từng chữ cho thật óng ả mới thôi. Cô đào Xuyến là người lịch lãm có trình độ thẩm văn cao. Tác giả Truyện Kiều nếu nói ra cho thật minh bạch thì phải đề là NGUYỄN DU - CÔ ĐÀO XUYẾN, (cũng như thuyết Tương đối một phát minh vĩ đại thế kỷ XX của Anhxtanh, cần phải công bằng ghi tên bà vợ ông là đồng tác giả). Lối “lẩy” Kiều là lối diễn ngâm độc đáo do cô đào Xuyến chế tác ra. |
ĐINH VĂN TUẤN
Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).
KHẾ IÊM
Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.
ALAN KIRBY
LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.
LÊ QUỐC HIẾU
Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.
THÁI KIM LAN
I.
Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.
LUÂN NGUYỄN
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
(Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)
BỬU CHỈ
Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.
LÊ QUANG THÁI
Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)
ĐỖ LAI THÚY
Kìa ai chín suối xương không nát
Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
(Nguyễn Khuyến)
TRẦN HUYỀN TRÂN
Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?
NGUYỄN DƯ
Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?
PHAN TUẤN ANH
“Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
(T.Lessing)
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:
PHAN NGỌC
Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.
YẾN THANH
Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó.
TRIỆU SƠN
Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.
LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).