Sự vận động của các thể văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới

09:04 07/09/2009
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

Nhà phê bình Lý Hoài Thu - Ảnh: 100years.vnu.edu.vn

Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ 1986 trở lại nay) không nằm ngoài quy luật đó của nghệ thuật. Nguồn gốc sâu xa của một tiến trình đổi mới nằm trong cảm hứng sáng tạo, trong quan niệm nghệ thuật về con người và đời sống xã hội, trong tư duy nghệ thuật... Nhưng tất cả những yếu tố đó đều trực tiếp chi phối đến phương thức phản ánh, đến cách thức cấu trúc và vận dụng thể loại. Chưa thể có một sự cách tân với mặt bằng vô cùng rộng lớn và tinh thần hiện đại hoá triệt để như thời hoàng kim 1930 - 1945, song nhìn vào tiến trình vận động của văn học Việt Nam giai đoạn từ 1986 trở lại nay, người ta dễ nhận ra sự phong phú đa dạng của diện mạo thể loại, những biến động về thi pháp cùng sự hưng thịnh của từng thể loại riêng biệt.

Tiểu thuyết là một thể loại lớn của phương thức tự sự, một trong những thể loại chủ chốt của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Kể từ những gương mặt đầu của tiểu thuyết "Tự lực văn đoàn", tiểu thuyết hiện thực phê phán, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến, tiểu thuyết Việt Nam đã có cuộc hành trình ngót 3/4 thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, tiểu thuyết đã khẳng định được vị trí then chốt của mình bằng việc tái hiện những bức tranh hiện thực đời sống với một quy mô lớn, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số phận con người.

Hiện thực đời sống vào những năm sau 1975, đặc biệt vào thời kỳ đổi mới với nhiều biến động phức tạp, thực sự là "vùng trời, vùng đất" thích hợp, nếu không muốn nói là lý tưởng cho sự sáng tạo tiểu thuyết. Chính Nguyễn Khải, một trong những cây bút sớm có tư tưởng đổi mới đã thừa nhận: "Thời nay rộng cửa, gợi được rất nhiều thứ để viết. Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ"(2). Vẫn còn đó âm hưởng hào hùng của sức mạnh và số phận cộng đồng, tiểu thuyết sau 1975 đã có thêm một cuộc hành hương tìm về với cội nguồn đặc trưng thể loại: đi sâu tìm hiểu, khám phá những vấn đề thuộc về số phận cá nhân.

Nếu thừa nhận cảm hứng về con người với những bước thăng trầm của số phận là đặc trưng nổi bật của tư duy tiểu thuyết thì rõ ràng tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã khơi đúng, khơi sâu vào mạch chính của thể loại. Không gian tiểu thuyết trở nên chân thực và nhân đạo hơn với "Thời xa vắng" (Lê Lựu), "Chim én bay" (Nguyễn Trí Huân), "Lời nguyền hai trăm năm" (Khôi Vũ), "Bến không chồng" (Dương Hướng), "Mảnh đất lắm người nhiều ma" (Nguyễn Khắc Trường), "Thân phận tình yêu" (Bảo Ninh), "Đám cưới không có giấy giá thú" (Ma Văn Kháng), "Góc tăm tối cuối cùng" (Khuất Quang Thụy), "Tiễn biệt những ngày buồn" (Trung Trung Đỉnh), "Thuỷ hoả đạo tặc" (Hoàng Minh Tường), "Hành lang phía đông" (Bùi Bình Thi), "Nắng quái" (Trầm Hương)... Đất nước chuyển mình sang một giai đoạn mới, tâm lý và nhịp sống thời đại đổi thay. Con người trong tổng hoà của những mối quan hệ xã hội trở nên phức tạp hơn. Không phải ngẫu nhiên mà đề tài thế sự, đời tư nổi lên như một vấn đề trung tâm của mọi "nỗ lực sáng tạo" trong tiểu thuyết đương đại. Ngay cả những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, đề tài nông thôn với quy mô hiện thực rộng lớn, nhiều tầng, nhiều mảng, nhà văn vẫn xoáy sâu vào những vấn đề cốt yếu của đời sống thông qua tâm điểm nhân vật. Những vui buồn, sướng khổ, được mất... của con người đã đi vào văn chương một cách chân thực, nhân bản và giàu tính hướng thiện.

Chính vì vậy, bên cạnh giá trị hiện thực lớn lao mà "tấm gương lớn" tiểu thuyết phản chiếu lại, một trong những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới là đã khắc họa thành công những số phận cá nhân. Cũng vẫn là người lính, người mẹ, người vợ, nghệ sĩ, trí thức, nông dân... nhưng giờ đây họ được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau, được đặt vào trong nhiều vòng quay của cuộc đời, kể cả những vòng xoáy nghiệt ngã nhất. Bằng cách ấy, các nhà tiểu thuyết đã gửi gắm được nhiều thông điệp nghệ thuật mang ý nghĩa triết lý nhân sinh, mở ra nhiều khuynh hướng đối thoại đa chiều... Không thỏa hiệp, không khoan nhượng với cách nhìn nhận con người bằng cái nhìn đơn giản, một chiều, chỉ thấy mặt tốt đẹp, mặt lý tưởng, các nhà tiểu thuyết đương đại đã đặt nhân vật vào vòng xoay nghiệt ngã của cuộc đời với đầy đủ các sắc màu, các cực đối lập: nhân tính và phi nhân, đạo lý và thất đức, bản ngã và phi bản ngã... và cũng không né tránh những mặt khuất lấp của cuộc đời, kể cả "góc tăm tối cuối cùng".

Nhân vật trong tiểu thuyết thời kỳ này, vì vậy, không còn mờ nhạt, đơn điệu mà có sự kết hợp giữa hình dạng và nội tâm, giữa ý thức và vô thức, giữa dục vọng bản năng và ước mơ thánh thiện. Nó có sức mạnh cảm hoá lòng người bởi những nét đời chân thực ấy. Và cũng có thể nói rằng, thế giới nhân vật của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đa phần nhuốm màu sắc bi kịch. Ai cũng có những đoạn đời gập ghềnh chông gai, những nỗi niềm trắc ẩn, những thua thiệt, mất mát... Nhưng đó là nét bi kịch mang ý nghĩa thức tỉnh, luôn hướng tới sự hoàn thiện nhân cách. Những lối viết hằn học, nhẫn tâm chuyên chú vào việc cường điệu những cuộc đời quẩn quanh, bế tắc, những chuyện tình mùi mẫn một cách rẻ tiền hay tầm thường bản năng đều nhanh chóng bị đẩy lùi ra khỏi địa hạt văn chương. Đó là dấu hiệu cho thấy nền văn học nói chung và tiểu thuyết thời kỳ đổi mới nói riêng là một khuynh hướng phát triển lành mạnh, đối lập với tất cả những gì có thể làm ô nhiễm bầu không khí nhân văn trong sạch.

Về hình thức nghệ thuật, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới có nhiều thể nghiệm và tìm tòi theo chiều hướng hiện đại hoá. Nếu như trước đây, các nhà tiểu thuyết hướng tới những bức tranh hiện thực hoành tráng thì giờ đây họ "trở về xem xét con người Việt Nam một cách sáng tỏ và để đào xới vào nó sâu hơn" (Nguyễn Minh Châu), "phải viết về một cái gì đó của con người, cho con người" (Xuân Cang). Vì thế, kích thước tác phẩm trở lại với khuôn khổ nhỏ. Không còn những bộ tiểu thuyết nhiều tập với số lượng lên đến hàng nghìn trang như thời chống Pháp, chống Mỹ. Tiểu thuyết thời kỳ này thường gói gọn trong phạm vi một tập với số lượng phổ biến khoảng trên dưới 300 trang. Tuy nhiên khuôn hình ấy không hề hạn chế những cách tân về thi pháp thể loại. Kết cấu tác phẩm trở nên linh hoạt và sáng tạo hơn.

Bên cạnh những tác phẩm tuân thủ lối kết cấu truyền thống (trình tự thời gian song song với đường đời nhân vật) như "Thời xa vắng" - Lê Lựu, "Mảnh đất lắm người nhiều ma" - Nguyễn Khắc Trường, "Bến không chồng" - Dương Hướng, "Hành lang phía đông" - Bùi Bình Thi, "Thuỷ hoả đạo tặc" - Hoàng Minh Tường... là những tác phẩm kết cấu theo quy luật tâm lý (dòng hồi tưởng và ký ức của tác phẩm) như "Thân phận tình yêu" (Bảo Ninh), "Ăn mày dĩ vãng" - Chu Lai, "Chim én bay" - Nguyễn Trí Huân, "Góc tăm tối cuối cùng" - Khuất Quang Thụy. "Một ngày và một đời" - Lê Văn Thảo. Có thể nói đây là những tác phẩm tạo được những ấn tượng mới về nghệ thuật tiểu thuyết. Trên một nền cốt truyện không có sự tổ chức sắp xếp theo một trình tự nhất định nên có phần lỏng lẻo, thậm chí có khi không thành cốt truyện, không cần cốt truyện, đời sống nội tâm nhân vật được tập trung khai thác với nhiều biến thái: suy nghĩ, cảm xúc, tiềm thức, vô thức, mộng mị, hồi ức...

Đặc biệt là những đoạn nhân vật độc thoại. Cấu trúc không gian, vì thế, cũng có sự đảo lộn: hiện tại xen kẽ vào quá khứ, thủ pháp đồng hiện, thủ pháp tạo ra những khoảng gãy khúc, những mảng vỡ không gian và sau đó liên kết lại theo phương pháp lắp ghép của nghệ thuật điện ảnh trở nên phổ biến. Giọng điệu kể chuyện của tiểu thuyết cũng có phần hấp dẫn, khách quan và đa thanh hơn. Thay vì lối kể chuyện truyền thống của một nhân vật trung gian, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới thường có hai nhân vật kể chuyện. Điểm nhìn nghệ thuật không chỉ được gia tăng mà còn thường xuyên xê dịch, đổi ngôi. Nhờ đó nó phá vỡ được lối kể lể đơn điệu, nhuốm màu sắc chủ quan của tiểu thuyết truyền thống. Cũng nhờ đó mà nó bớt đi tính giáo huấn áp đặt một chiều, tạo điều kiện thuận lợi cho tinh thần đối thoại và tự đối thoại cởi mở, dân chủ của tư duy tiểu thuyết mới.

Bên cạnh tiểu thuyết, truyện vừa và truyện ngắn (Trung thiên tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết) trong những thập niên qua phát triển mạnh mẽ, có thể gọi là rực rỡ. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi đây là thời kỳ "lên ngôi" của truyện ngắn. Điều này hoàn toàn có thể cắt nghĩa được bởi trong nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép từ phía các phương tiện nghe nhìn truyện ngắn đã phát huy dược ưu thế của mình một cách hiệu quả. Thêm vào đó là sự xuất hiện đồng loạt các cây bút nữ ngỡ có lúc họ làm chủ văn đàn cũng tỏ rất "vừa tay" với thể loại này. Với một khuôn khổ có thể gọi là nhỏ bé, với sự tước bỏ những chi tiết rườm rà, với sự dồn nén của yếu tố không - thời gian, yếu tố tâm lý nhân vật... Truyện ngắn có khả năng khai thác sâu những bước ngoặt của số phận. Cùng nằm trong hệ tư duy của phương thức tự sự, song nếu ví tiểu thuyết như một cây đại thụ với đầy đủ gốc, thân, cành, lá xum xuê thì truyện ngắn chỉ là một lát cắt ngang của thân cây đó. Điều quan trọng là trên mặt cắt ấy phải nổi rõ những đường vân hiện thực. Đó là hướng tiếp cận và cách thức phản ánh của thể loại này.

Một khối lượng đồ sộ những tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu - người được mệnh danh là nhà văn tiên phong của quá trình đổi mới (Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài khơi, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Nguyễn Quang Lập (tiếng gọi phía mặt trời lặn), Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu), Nguyễn Quang Thiều (Hai người đàn bà xóm trại), Phạm Hoa (Đùa của tạo hoá), Tạ Duy Anh (Bước qua lời nguyền, Xưa kia chị đẹp nhất làng), Võ Thị Hảo (Biển cứu rỗi), Nguyễn Thị Thu Huệ (Hậu thiên đường), Y Ban (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ), Phan Thị Vàng Anh (Khi người ta trẻ), Phan Triều Hải (Một tối ở quán bar) v.v... thực sự đã mang đến một nguồn sinh lực tràn trề cho thể loại. Cùng với sự gia tăng những tên tuổi mới và số lượng tác phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại. Đó là chiều sâu triết lý và những cảm nhận về nỗi cô đơn, của thân phận con người, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và văn xuôi... Những bước cách tân ấy đã tạo nên sắc diện mới và sự lôi cuốn cho thể loại. Những cuộc thi truyện ngắn liên tục, đều đặn của tạp chí Văn nghệ quân đội, báo Văn nghệ đã phát hiện nhiều tài năng mới. Có thể nói rằng, trong văn xuôi, truyện ngắn là thể loại đã khẳng định được vị trí của mình và có tầm ảnh hưởng rộng rãi nhất đối với đời sống văn học thời kỳ đổi mới.

Vào những năm 90, trên văn đàn xuất hiện một loại "truyện rất ngắn", còn gọi là "truyện ngắn mi-ni". Tiền thân của dạng truyện này là những "mẩu chuyện", khác với truyện vừa, truyện ngắn là những "câu chuyện". Sức hấp dẫn của truyện ngắn mi-ni chính là sự hàm súc, đúc đọng của ý tưởng và ngôn từ, trong đó có sự kết hợp giữa triết lý ngụ ngôn và chất thơ, giữa tính biểu tượng và hình ảnh thực, giữa cảm xúc và nhận thức lý tính. Sự đăng đàn của truyện ngắn mi-ni cho thấy độ co giãn của thể loại đang có nhiều biến động. Cuộc thi truyện rất ngắn do Tạp chí Thế giới mới tổ chức năm 1995 đã thuyết minh cho sự tồn tại độc lập của thể truyện này. Tuy nhiên, đây mới là những thể nghiệm bước đầu bởi truyện rất ngắn đòi hỏi một độ nhạy cảm cao và sự dẫn dắt khéo léo, nếu không rất dễ trở thành những câu chuyện ngụ ngôn hiện đại.

Trong văn học Việt Nam, là một thể loại nhạy bén, linh hoạt, luôn bám sát dòng chảy hiện thực vốn có nhiều biến động của đất nước suốt mấy chục năm chiến tranh. Từ những năm 30, các thể ký văn học đã được khẳng định với những tác phẩm phóng sự về nông thôn của Ngô Tất Tố, về đời sống của phu nghèo thành thị cùng mọi tệ nạn trộm cắp, cờ bạc... của Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, về "Hà Nội ba sáu phố phường" qua những trang sách giàu chất thơ của Thạch Lam và đặc biệt là qua phong cách tùy bút, tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thể ký thực sự là một mũi nhọn xông xáo khắp các chiến trường khói lửa, các nẻo đường mưa tuôn nắng dội, len lỏi vào những ngóc ngách tận cùng của đời sống (Ký sự - Trần Đăng, Ký sự Cao Lạng - Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký ở rừng - Nam Cao, Tùy bút kháng chiến - Nguyễn Tuân, Bất khuất - Nguyễn Đức Thuận, Sống như anh - Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi, Những ngày nổi giận - Chế Lan Viên, Ký chống Mỹ - Nguyễn Tuân, Đường lớn - Bùi Hiển, Ký sự miền đất lửa - Vũ Kỳ Lân, Nguyễn Sinh, Rất nhiều ánh lửa - Hoàng Phủ Ngọc Tường...).

Nối tiếp truyền thống ấy, sang giai đoạn đổi mới, ký vẫn là thể loại nhạy cảm nhất trước những vấn đề thời sự xã hội. Sức mạnh của thể ký chính là sức sống nội tại của nguyên mẫu hiện thực. Bản thân quy luật vận động của đời sống đã lựa chọn cho nhà văn những con người, những sự việc mang tính điển hình. Thể ký cảm hóa lòng người, mang đến nhận thức và niềm tin cho độc giả từ những "người thật việc thật" ấy. Với tư tưởng dân chủ mạnh mẽ, với tinh thần sẵn sàng "dấn thân", nhập cuộc, ký đã trở thành thể loại tiên phong nhất của dòng văn học thời kỳ đổi mới, trên cơ sở tôn trọng hiện thực khách quan (tính xác thực của đối tượng "người thật việc thật"), ký đã góp phần đắc lực vào việc phản ánh trung thực những vấn đề bức xúc, nóng hổi nhất của đời sống hàng ngày. Khảo sát sự vận động của các thể ký văn học trong hai thập niên qua, người ta thấy nổi lên hàng đầu 2 thể tiêu biểu: phóng sự xã hội ở thời đoạn đầu và hồi ký văn học ở thời đoạn sau.

Phóng sự vốn được xem như một thể loại trung gian giữa văn học và báo chí. Những năm đầu thời kỳ đổi mới, báo chí là một phương tiện thông tin có khả năng chuyển tải nhanh nhất những vấn đề nóng hổi của thời sự xã hội. Trong lúc các thể loại khác cần thời gian để "tư duy" và nghiền ngẫm thì phóng sự xông xáo tiến vào hiện thực. Với tính nhạy bén, khách quan, ngay từ những bước đột phá đầu tiên, phóng sự đã gây được tiếng vang lớn. Thay vì biểu dương, tuyên truyền những tấm gương "người tốt việc tốt", ký giai đoạn này can đảm, thẳng thắn nhìn vào những mặt trái của đời sống xã hội với bao nhiêu chuyện đời ngang trái, éo le. "Cái đêm hôm ấy đêm gì" - Phùng Gia Lộc, "Người đàn bà quì" - Trần Khắc, "Câu chuyện về một ông vua lốp" - Nhật Linh, "Người lang thang không cô đơn" - Minh Chuyên, "Lời khai bị can" - Trần Huy Quang, "Suy nghĩ trên đường làng" - Ngô Ngọc Bội... đều là những hồi chuông thức tỉnh nhân tâm, tạo ra những phản ứng tích cực trong dư luận xã hội và đáp ứng một cách kịp thời tinh thần "đổi mới tư duy", "đổi mới cách nhìn người, nhìn sự việc" của những năm đầu thời kỳ chuyển hướng.

Giọng điệu của phóng sự thường mang tính khách quan cao. Người viết phóng sự thường giấu mình để cho con số, chi tiết, sự việc, nhân chứng lên tiếng. Bằng cách ấy, phóng sự đưa đến cho độc giả một niềm tin gần như tuyệt đối vào sự trung thực của ngòi bút nhà văn. Chính vì vậy, người viết phóng sự ngoài sự thông minh sắc sảo để phát hiện, nắm bắt vấn đề cần phải có ý thức trách nhiệm về ngòi bút của chính mình để không làm mất đi niềm tin của độc giả. Nghĩa là không đi ngược lại đặc trưng cơ bản nhất của thể loại. Từ những hiện tượng có thật của đời sống, phóng sự trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới là luồng gió mạnh mang theo nhiệt tâm của những người cầm bút, xua đi tất cả những gì u ám, nặng nề, bảo thủ, trì trệ, góp phần lập lại sự công bằng dân chủ cho đời sống xã hội. Cao hơn hết là phải trân trọng con người, không dung tha những thế lực lộng hành chà đạp lên cuộc sống và nhân phẩm con người. Đó là ý nghĩa xã hội, giá trị nhân văn lớn nhất mà các cây bút phóng sự đã góp vào thành tựu chung của văn xuôi giai đoạn này.

Cùng với tư tưởng đổi mới nhất quán trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, những năm vừa qua cũng là thời kỳ nhìn nhận, định vị lại nhiều giá trị văn chương cũ. Không phải ngẫu nhiên những năm cuối thập kỷ 90, trên văn đàn xuất hiện nhiều tác phẩm hồi ký, bút ký của các nhà văn, tạo nên một mảng sinh động của đời sống văn học mà có thể nói ngay rằng trước đó là chưa thể có. Nhiều sự kiện văn học trong quá khứ, nhiều số phận văn chương được tái dựng theo một cách nhìn mới. "Từ bến sông Thương" - Anh Thơ, "Cát bụi chân ai", "Chiều chiều" - Tô Hoài, "Chân dung và đối thoại" - Trần Đăng Khoa, "Vị giáo sư và ẩn sĩ đường", "Ba lần đến nước Mỹ" - Hà Minh Đức, "Nhớ lại một thời" - Tố Hữu... đều là những tác phẩm tạo được ấn tượng mạnh. Đáng chú ý hơn cả, gây xôn xao dư luận là những tác phẩm của Tô Hoài, Trần Đăng Khoa. Xung quanh những vấn đề của văn chương một thuở như chuyện đi thực tế sáng tác, chuyện lựa chọn nhân vật tích cực... giờ đây được một số nhà văn lập lại giả thiết mới cũng gây nhiều tranh cãi. "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa đã làm sôi động báo chí gần suốt một năm qua. Nhờ sự "hâm nóng" của "báo giới", cuốn sách của Trần Đăng Khoa được coi là "hiện tượng phê bình mới"(?) và trở thành cuốn sách Best-Seller trong năm. Ngoài những thành công không phủ nhận được của các tác phẩm hồi ký, một bài học thấm thía cho người cầm bút là phải hết sức trung thực, tuyệt đối không được bịa đặt, thêm thắt. Đó là một định lệ nghệ thuật bắt buộc người viết ký phải tuân thủ, nếu không tác phẩm sẽ mất đi rất nhiều giá trị.

Như đã trình bày ở trên, ngoài phóng sự và hồi ký, các thể ký khác hầu như vắng bóng trong văn xuôi thời kỳ này. Ký sự có thể cắt nghĩa bởi nó chỉ thích ứng với bối cảnh chiến tranh. Song trong khi truyện ngắn "tăng trưởng" rất nhanh thì truyện ký rất ít khi xuất hiện. Thơ văn xuôi có tỉ lệ cao hơn nhiều so với trước đây thì tùy bút lại rất thưa thớt, rất ít thành tựu. Phải chăng đó là sự phản ánh những đặc điểm tư duy, thị hiếu thẩm mỹ của thời đại "nghe nhìn"? Thực tế là cùng với sức mạnh của báo chí, ký văn học cũng ngày mỗi hiện đại hơn. Thi pháp thể loại cũng có nhiều tìm tòi. Ngoài khả năng kết hợp tư duy lôgích với tư duy hình tượng, giọng điệu sắc bén, tỉnh táo bên giọng trữ tình, thuyết minh... ký hiện đại đòi hỏi một lối viết mạch lạc, gọn và đặc biệt là nhiều hàm lượng thông tin. Ngoài các nhà văn tên tuổi, rất đông đảo một lực lượng các cây bút trẻ đang trưởng thành và bước đầu khẳng định phong cách của mình như Văn Chinh, Xuân Ba, Nguyễn Việt Chiến, Huỳnh Dũng Nhân... Chính họ đã mang đến sức trẻ khỏe cho dòng văn học trên báo chí trong suốt thời gian qua.

Nhìn chung, gần 20 năm qua của thời kỳ đổi mới, các thể loại trong dòng văn học đương đại Việt Nam đã có những bước vận động và phát triển tích cực theo chiều hướng hiện đại. Không kỳ vọng vào một cuộc cách mạng văn chương duy tân như thời đại 1930-1945, nhưng rõ ràng văn học Việt Nam bước đầu đạt được nhiều thành tựu về thể loại và đang trên đà hiện đại hóa. Dưới áp lực cạnh tranh của các phương tiện nghe nhìn, văn học đang cố "thu mình lại", lựa chọn một "khuôn hình" thể loại đáp ứng được thị hiếu văn chương và nhu cầu thông tin thời hiện đại. Trong khi đời sống toàn cầu mở ra những triển vọng giao lưu giữa các vùng văn hóa, giữa văn hóa và văn học... tạo nên nhiều cầu nối liên ngành thì trong nội bộ văn học, hiện tượng giao thoa giữa các thể loại có thể coi là một đặc điểm nổi bật. Nhìn vào sự vận động của chúng, tuy ranh giới không bị xóa nhòa, người ta thấy rất rõ sự thâm nhập, pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau giữa các thể loại. Chính từ những vùng sóng giao thoa này, các thể loại cũ đã có thêm những tố chất mới.

Về mặt nguyên lý, sức sống của một thời đại văn học phụ thuộc vào sự phong phú và khả năng hồi sinh, đổi mới của các thể loại. Văn học Việt Nam trong thời gian qua và cả trong kỷ nguyên tới đang vận động và phát triển theo chiều hướng song song ấy.

Hà Nội 3-2001
L.H.T
(186/08-04)

-----------------------
1.M.Bakhtin - Những vẫn đề về thi pháp Đôxtôiepxki.
2. Nguyễn Khải - Gặp gỡ cuối năm

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.