Sự tương giao giữa tư tưởng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trong tác phẩm “Nô tỳ mẫu đơn” của Pearl S.buck

15:53 02/10/2008
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

Cụ thể hơn, trong mỗi con người, lại là một tiểu vũ trụ được thâu tóm, rất phong phú, đa dạng và phức tạp, mà ai ai cũng muốn khám phá và không thể nào thông tri toàn bộ được. Vì con người luôn luôn là một thực thể sống động, vừa ẩn chứa những yếu tố thể chất thấy được, cảm được và sờ mó được, nhưng cũng có những phần siêu linh, cao hơn, vượt ra khỏi tầm kiểm soát, tầm trí hiểu mà đôi lúc chúng ta thấy nó như mông lung, mờ mịt mà chỉ phát hiện bằng một trực giác khó đoán định, khó biểu hiện,và con người tin đó là một trong những khía cạnh rõ nét của thế giới tâm linh, của những lực lượng siêu phàm luôn hiện diện và tồn tại song song với con người.
Có điều tự hỏi: tại sao khoa học ngày nay đã đạt đến những tầm hiểu biết cao xa, những tri thức quán thông trong nhiều lãnh vực, nhưng không thể xoá nhòa hết tất cả niềm tin của con người vào thế lực thần linh mà ngày nay đã được nâng lên thành tôn giáo? Như vậy, phải chăng sự hiện hữu của thế giới thần linh, huyền bí ấy vẫn còn có giá trị? Cho nên, có thể nói, tín ngưỡng dân gian hay niềm tin tôn giáo đã ăn hòa, tương giao của nó trong nhiều lãnh vực khác nhau và ngay trong chính dòng chảy văn học.

Pearl S.Buck cũng đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm in đậm màu sắc tôn giáo và cũng đã được nhiều độc giả yêu thích. Nơi những tác phẩm của bà người ta nhận ra một sự hài hoà tương giao giữa tư tưởng triết luận của tôn giáo với những truyền thống của người Á Đông, đặc biệt là của người dân Trung Hoa trong mọi sinh hoạt đời thường. Vì chính trong con người của nữ văn sĩ này, vừa thừa hưởng dòng huyết thống của con nhà truyền giáo, vừa được hấp thụ nền giáo dục Trung Hoa. Tuy là gốc người Mỹ, nhưng bà đã chịu ảnh hưởng không nhỏ đến những phong tục, tập quán và cách hiểu của người dân Trung Hoa, nơi mà tuổi thơ và sự trưởng thành của bà đã được hiện hữu và phát sinh.
“Nô tỳ Mẫu Đơn” được Pearl S.Buck sử dụng ngòi bút điêu luyện và hiểu biết khá rộng rãi của mình để dựng nên thật hấp dẫn và sống động. Xem ra nhà văn không mấy tán đồng những tư tưởng tôn giáo quá khích trong con người của vị giáo sĩ già và bà Ét-dơ-ra bảo thủ. Tác giả dẫn dắt người đọc đi từ những cuộc lễ trọng thể của người Do Thái giáo đến những sinh hoạt đời thường trong gia đình. Ngay khi mở đầu tác phẩm làm việc chuẩn bị cho bữa tiệc Vượt Qua tại gia đình ông bà Ét-dơ-ra. Một bữa tiệc mà những người dự tiệc không được tầm nhìn của tác giả hướng chiều về, nhưng ống kính lại quay nhanh, thu hút sự tập trung chú ý của người đọc vào cô nô tỳ nhỏ là Mẫu Đơn. Sự khéo léo của nàng trong việc trang điểm những bình hoa, đến nỗi bà Ét-dơ-ra khó tính cũng phải thừa nhận là rất đẹp. Mẫu Đơn lại nhanh nhẹn trong việc điều khiển những người nô bộc trong gia đình Ét-dơ-ra. Đặc biệt, tuy Mẫu Đơn là cô nô tỳ hoàn hảo trong nét đẹp tinh thần lẫn thể xác, nhưng lại không được quyền tự do trong tình yêu, vì nàng chỉ là người đã được mua về để hầu hạ, để làm bạn với Đavít, cậu chủ của mình. Cho nên nàng chỉ thầm yêu say đắm và không dám bày tỏ nó một cách rõ ràng, minh bạch tình yêu của mình với cậu chủ.

Vì đối với quan niệm của những người tôn giáo bảo thủ như vị giáo sĩ già, bà Ét-dơ-ra và cả Lê A nữa, thì họ không thể chấp nhận một cuộc hôn nhân dị giáo, nếu đương sự không ngả theo tôn giáo của họ. Hơn nữa, Mẫu Đơn chỉ là số phận của một nữ tỳ, một giai cấp thấp hèn, chẳng khác một vật sở hữu của chủ nhân, thì làm sao có thể công khai biểu lộ tình yêu trong trái tim mình được. Mặt khác, trong truyện là kể về những người Do Thái giáo lưu lạc xa quê, vì thế trong tâm thức họ luôn muốn duy trì và bảo vệ dòng dõi của những người thờ kính Đức Jêhôva. Chẳng hạn lời của vị giáo sĩ nói với Lê A khi khuyên nàng đi lấy chồng là Đavít: “Hãy đưa về cho TA gia đình Étdơ Ra! Hãy làm thế nào cho cha và con nhớ rằng họ là của TA, dòng dõi của những người mà TA đã dẫn dắt bằng bàn tay của người tôi tớ của TA là Moide, đã đưa họ ra khỏi nước Ai Cập để đi vào miền Đất Hứa. Nhưng dân tộc của TA đã phạm tội. Chúng đã lấy vợ trong số người ngoại đạo và đã tôn sùng những giả thần. TA đã đuổi chúng để chúng cải hồi. Nhưng TA không quên chúng. Chúng sẽ đến với TA, và TA sẽ cứu chúng. TA sẽ đưa chúng về Tổ quốc của chúng. Và bằng cách nào vậy nếu không phải là bằng bàn tay của những người còn trung thành với TA”(1).

Đavít là nhân vật bị giằng xé giữa niềm tin truyền thống và tình yêu sét đánh trong hồn. Cụ thể là sự chọn lựa giữa Lê A và Lan, cô con gái của nhà thương nhân. Còn đối với Mẫu Đơn thì Đavít biết mình không thể thiếu nàng, nhưng nàng không thể là vợ chàng được, song chỉ mãi mãi sẽ là sở hữu của chàng vậy thôi. Cuộc chiến đấu nội tâm của nhân vật diễn tiến rất phức tạp, nhiều lúc, xem như Đavít đã quyết định ngả theo Lê A khi chàng cảm nhận rằng: “Họ không có ở riêng một mình, nhưng họ đã cảm thấy hợp nhất bằng những liên hệ huyết thống, tấm lòng và tâm trí. Thật ra dân tộc của họ là dân tộc độc nhất, có một số mệnh, Jêhôva vị Thượng Đế chân chính duy nhất, đã để dành riêng ra”. Và “Số mệnh của chúng ta là làm cho thế giới chú ý cho đến ngày mà tất cả đều biết Đức Jêhôva, vị Thượng Đế chân chính duy nhất. Chúng ta là người qua đường, những khách lữ hành giữa đất và trời”. Cho nên, Đavít cảm thấy tội lỗi trong khi chàng vô tư chơi bời, còn dân tộc chàng bị đuổi ra khỏi nhà, bị tàn sát, chết chóc trên các thành phố khác.

Tuy nhiên, nhân vật chính được Pearl S.Buck đặt vào trong câu chuyện là cô nô tỳ nhỏ xinh, nhưng nhanh nhẹn và quyết đoán. Mẫu Đơn là một con người không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài mà tâm hồn nàng, trí thông minh của nàng cũng là những nét nổi trội hơn nữa. Để đạt mục đích là luôn được sống bên cạnh Đavít, người mình yêu thương, nàng đã bằng mọi giá để lôi kéo tâm hồn chàng thoát khỏi sự ràng buộc của tôn giáo ấy.Vì nàng biết, nếu chàng chấp nhận lễ cưới Lê A thì nàng sẽ không thể làm một tì thiếp của chàng, nhưng nếu chàng lấy người phụ nữ Trung Quốc kia thì sự chấp nhận tình yêu của nàng sẽ dễ dàng hơn. Nàng đã không bao giờ thụ động để số phận dun dủi, đưa đẩy tới đâu hay tới đó, nhưng nàng đã hành động. Sự an bài của tác giả đã giúp nàng đạt được mục đích, để rồi cuối cùng cái chết của Lê A xảy ra, đẩy Đavít đến với người mình yêu. Nhưng số phận nô tỳ của Mẫu Đơn vẫn phải trả giá bằng chính sự tách rời nàng ra khỏi người nàng yêu. Nàng sẽ mãi mãi giữ lại cho riêng mình tình yêu ấy nơi cửa chùa.

Điều đáng nói trong tác phẩm đó là những hành động, suy tư của các nhân vật, yếu tố hoà quyện đan xen nhau giữa các triết lý tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Chẳng hạn giữa Do Thái giáo và tư tưởng của những người đã chịu ảnh hưởng nhiều về nền giáo dục Trung Quốc “Sự thờ phượng là tôn sùng trời, và đức hạnh là đi theo tổ tiên. Nhưng trước sự thờ phượng và đức hạnh còn có trí tuệ con người” và “Nếu ngươi thừa nhận sự tồn tại của trời, của đất, của các vì vua chúa, của các bậc phụ mẫu, và của Sư phụ thì người không xa Con đường chính trực của lý trí và đức hạnh”. Nhà văn phá đổ những tường rào ngăn cách các tôn giáo bằng lối viết nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, khiêm tốn nhưng rất thực tế, nhìn nhận những giá trị trước đó như những nấc thang kế thừa để đạt đến cái đích hoàn thiện hơn “Từ thời A bờ-raham, khi mà đạo của chúng ta được lập ra, và mãi mãi về sau, chúng ta, những người Do Thái tại Trung Quốc, đã truyền bá sự hiểu biết của Thượng Đế và bù lại, chúng ta đã nhận được sự hiểu biết của Khổng Tử, của Đức Phật và của Lão Tử”. Khi lớn lên trong môi trường của xã hội Trung Quốc, đương  nhiên nữ văn sĩ cũng đã thấy được Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo ăn sâu trong tư tưởng của người dân như thế nào, nên bà đã uyển chuyển trong chính sự dung hòa chứ không hề công kích đả phá. Mặc dù nhân vật đôi lúc cũng quá khích như vị giáo sĩ khi khẳng định rằng “Chúng ta có thể biết có những gì bên ngoài quả đất này, ông thét lên với giọng nói mạnh mẽ và cương quyết. Chính vì điều đó mà Thượng đế đã chọn dân tộc của tôi, để cho chúng tôi có thể vĩnh viễn nhắc nhở nhân loại về sự hiện hữu của Người. Chỉ một mình Người cai trị. Chúng tôi là những con lăn làm chuyển hướng linh hồn con người.

Chúng tôi chỉ được nghỉ ngơi khi nhân loại tin tưởng nơi vị Thượng đế chân chính”.
Cái kết thúc của câu chuyện là một nỗi ưu tư khắc khoải của con người trong hành trình đi tìm Chân - Thiện - Mỹ. Những cái chết đến với một số nhân vật chưa hoàn thành tâm nguyện suốt đời của họ, đó là nỗi khát mong về lại với quê cha đất tổ, xây dựng lại Đền thờ và làm cho mọi người hiệp nhất trong một niềm tin.
Pearl S.Buck đã khép lại tác phẩm “Nô tỳ Mẫu Đơn”, nhưng đã mở ra một chân trời mới cho muôn ngàn lối suy tư của người đọc, người nghe. Tín ngưỡng, tôn giáo, tình yêu và hành động của mỗi một nhân vật, một con người sẽ đạt đến cái chung cục thế nào nếu thế giới cứ mãi thiếu vắng tinh thần HÒA BÌNH và NHÂN BẢN. Tuy lối hành văn của bà khá cổ nhưng tư tưởng rất mới và hợp thời. Nếu thế kỷ XXI là thế kỷ của tôn giáo thì phải chăng mỗi người lo sao truyền bá được niềm tin cho tôn giáo mình để đạp đổ trên tất cả, để chống lại kịch liệt những ai không đồng quan điểm và đồng tôn giáo với mình. Nếu thế thì sự tàn sát đẫm máu, chiến tranh xảy ra một cách vô bổ biết bao như đã từng diễn ra ở một số nước trong những năm về trước. Cho nên, tinh thần hoà đồng, hiệp nhất, tương trợ, cảm thông, tôn trọng luôn luôn cần phải có và phải được lặp lại trong mỗi người, mỗi tôn giáo, để nhờ tình yêu thương, sự hiểu biết lẫn nhau sẽ xây dựng được một xã hội văn minh và giàu tình thương hơn, dù nơi đó có tồn tại đa sắc tộc, đa màu da, đa giai cấp và đa tôn giáo.
V.T.T.H

(nguồn: TCSH số 224 - 10 - 2007)

 



--------------------------
(1) Nô tỳ mẫu đơn - Thu Nga dịch - Nhà xuất bản Hà Nội - trang 84.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.