Sự tương giao giữa tư tưởng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trong tác phẩm “Nô tỳ mẫu đơn” của Pearl S.buck

15:53 02/10/2008
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

Cụ thể hơn, trong mỗi con người, lại là một tiểu vũ trụ được thâu tóm, rất phong phú, đa dạng và phức tạp, mà ai ai cũng muốn khám phá và không thể nào thông tri toàn bộ được. Vì con người luôn luôn là một thực thể sống động, vừa ẩn chứa những yếu tố thể chất thấy được, cảm được và sờ mó được, nhưng cũng có những phần siêu linh, cao hơn, vượt ra khỏi tầm kiểm soát, tầm trí hiểu mà đôi lúc chúng ta thấy nó như mông lung, mờ mịt mà chỉ phát hiện bằng một trực giác khó đoán định, khó biểu hiện,và con người tin đó là một trong những khía cạnh rõ nét của thế giới tâm linh, của những lực lượng siêu phàm luôn hiện diện và tồn tại song song với con người.
Có điều tự hỏi: tại sao khoa học ngày nay đã đạt đến những tầm hiểu biết cao xa, những tri thức quán thông trong nhiều lãnh vực, nhưng không thể xoá nhòa hết tất cả niềm tin của con người vào thế lực thần linh mà ngày nay đã được nâng lên thành tôn giáo? Như vậy, phải chăng sự hiện hữu của thế giới thần linh, huyền bí ấy vẫn còn có giá trị? Cho nên, có thể nói, tín ngưỡng dân gian hay niềm tin tôn giáo đã ăn hòa, tương giao của nó trong nhiều lãnh vực khác nhau và ngay trong chính dòng chảy văn học.

Pearl S.Buck cũng đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm in đậm màu sắc tôn giáo và cũng đã được nhiều độc giả yêu thích. Nơi những tác phẩm của bà người ta nhận ra một sự hài hoà tương giao giữa tư tưởng triết luận của tôn giáo với những truyền thống của người Á Đông, đặc biệt là của người dân Trung Hoa trong mọi sinh hoạt đời thường. Vì chính trong con người của nữ văn sĩ này, vừa thừa hưởng dòng huyết thống của con nhà truyền giáo, vừa được hấp thụ nền giáo dục Trung Hoa. Tuy là gốc người Mỹ, nhưng bà đã chịu ảnh hưởng không nhỏ đến những phong tục, tập quán và cách hiểu của người dân Trung Hoa, nơi mà tuổi thơ và sự trưởng thành của bà đã được hiện hữu và phát sinh.
“Nô tỳ Mẫu Đơn” được Pearl S.Buck sử dụng ngòi bút điêu luyện và hiểu biết khá rộng rãi của mình để dựng nên thật hấp dẫn và sống động. Xem ra nhà văn không mấy tán đồng những tư tưởng tôn giáo quá khích trong con người của vị giáo sĩ già và bà Ét-dơ-ra bảo thủ. Tác giả dẫn dắt người đọc đi từ những cuộc lễ trọng thể của người Do Thái giáo đến những sinh hoạt đời thường trong gia đình. Ngay khi mở đầu tác phẩm làm việc chuẩn bị cho bữa tiệc Vượt Qua tại gia đình ông bà Ét-dơ-ra. Một bữa tiệc mà những người dự tiệc không được tầm nhìn của tác giả hướng chiều về, nhưng ống kính lại quay nhanh, thu hút sự tập trung chú ý của người đọc vào cô nô tỳ nhỏ là Mẫu Đơn. Sự khéo léo của nàng trong việc trang điểm những bình hoa, đến nỗi bà Ét-dơ-ra khó tính cũng phải thừa nhận là rất đẹp. Mẫu Đơn lại nhanh nhẹn trong việc điều khiển những người nô bộc trong gia đình Ét-dơ-ra. Đặc biệt, tuy Mẫu Đơn là cô nô tỳ hoàn hảo trong nét đẹp tinh thần lẫn thể xác, nhưng lại không được quyền tự do trong tình yêu, vì nàng chỉ là người đã được mua về để hầu hạ, để làm bạn với Đavít, cậu chủ của mình. Cho nên nàng chỉ thầm yêu say đắm và không dám bày tỏ nó một cách rõ ràng, minh bạch tình yêu của mình với cậu chủ.

Vì đối với quan niệm của những người tôn giáo bảo thủ như vị giáo sĩ già, bà Ét-dơ-ra và cả Lê A nữa, thì họ không thể chấp nhận một cuộc hôn nhân dị giáo, nếu đương sự không ngả theo tôn giáo của họ. Hơn nữa, Mẫu Đơn chỉ là số phận của một nữ tỳ, một giai cấp thấp hèn, chẳng khác một vật sở hữu của chủ nhân, thì làm sao có thể công khai biểu lộ tình yêu trong trái tim mình được. Mặt khác, trong truyện là kể về những người Do Thái giáo lưu lạc xa quê, vì thế trong tâm thức họ luôn muốn duy trì và bảo vệ dòng dõi của những người thờ kính Đức Jêhôva. Chẳng hạn lời của vị giáo sĩ nói với Lê A khi khuyên nàng đi lấy chồng là Đavít: “Hãy đưa về cho TA gia đình Étdơ Ra! Hãy làm thế nào cho cha và con nhớ rằng họ là của TA, dòng dõi của những người mà TA đã dẫn dắt bằng bàn tay của người tôi tớ của TA là Moide, đã đưa họ ra khỏi nước Ai Cập để đi vào miền Đất Hứa. Nhưng dân tộc của TA đã phạm tội. Chúng đã lấy vợ trong số người ngoại đạo và đã tôn sùng những giả thần. TA đã đuổi chúng để chúng cải hồi. Nhưng TA không quên chúng. Chúng sẽ đến với TA, và TA sẽ cứu chúng. TA sẽ đưa chúng về Tổ quốc của chúng. Và bằng cách nào vậy nếu không phải là bằng bàn tay của những người còn trung thành với TA”(1).

Đavít là nhân vật bị giằng xé giữa niềm tin truyền thống và tình yêu sét đánh trong hồn. Cụ thể là sự chọn lựa giữa Lê A và Lan, cô con gái của nhà thương nhân. Còn đối với Mẫu Đơn thì Đavít biết mình không thể thiếu nàng, nhưng nàng không thể là vợ chàng được, song chỉ mãi mãi sẽ là sở hữu của chàng vậy thôi. Cuộc chiến đấu nội tâm của nhân vật diễn tiến rất phức tạp, nhiều lúc, xem như Đavít đã quyết định ngả theo Lê A khi chàng cảm nhận rằng: “Họ không có ở riêng một mình, nhưng họ đã cảm thấy hợp nhất bằng những liên hệ huyết thống, tấm lòng và tâm trí. Thật ra dân tộc của họ là dân tộc độc nhất, có một số mệnh, Jêhôva vị Thượng Đế chân chính duy nhất, đã để dành riêng ra”. Và “Số mệnh của chúng ta là làm cho thế giới chú ý cho đến ngày mà tất cả đều biết Đức Jêhôva, vị Thượng Đế chân chính duy nhất. Chúng ta là người qua đường, những khách lữ hành giữa đất và trời”. Cho nên, Đavít cảm thấy tội lỗi trong khi chàng vô tư chơi bời, còn dân tộc chàng bị đuổi ra khỏi nhà, bị tàn sát, chết chóc trên các thành phố khác.

Tuy nhiên, nhân vật chính được Pearl S.Buck đặt vào trong câu chuyện là cô nô tỳ nhỏ xinh, nhưng nhanh nhẹn và quyết đoán. Mẫu Đơn là một con người không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài mà tâm hồn nàng, trí thông minh của nàng cũng là những nét nổi trội hơn nữa. Để đạt mục đích là luôn được sống bên cạnh Đavít, người mình yêu thương, nàng đã bằng mọi giá để lôi kéo tâm hồn chàng thoát khỏi sự ràng buộc của tôn giáo ấy.Vì nàng biết, nếu chàng chấp nhận lễ cưới Lê A thì nàng sẽ không thể làm một tì thiếp của chàng, nhưng nếu chàng lấy người phụ nữ Trung Quốc kia thì sự chấp nhận tình yêu của nàng sẽ dễ dàng hơn. Nàng đã không bao giờ thụ động để số phận dun dủi, đưa đẩy tới đâu hay tới đó, nhưng nàng đã hành động. Sự an bài của tác giả đã giúp nàng đạt được mục đích, để rồi cuối cùng cái chết của Lê A xảy ra, đẩy Đavít đến với người mình yêu. Nhưng số phận nô tỳ của Mẫu Đơn vẫn phải trả giá bằng chính sự tách rời nàng ra khỏi người nàng yêu. Nàng sẽ mãi mãi giữ lại cho riêng mình tình yêu ấy nơi cửa chùa.

Điều đáng nói trong tác phẩm đó là những hành động, suy tư của các nhân vật, yếu tố hoà quyện đan xen nhau giữa các triết lý tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Chẳng hạn giữa Do Thái giáo và tư tưởng của những người đã chịu ảnh hưởng nhiều về nền giáo dục Trung Quốc “Sự thờ phượng là tôn sùng trời, và đức hạnh là đi theo tổ tiên. Nhưng trước sự thờ phượng và đức hạnh còn có trí tuệ con người” và “Nếu ngươi thừa nhận sự tồn tại của trời, của đất, của các vì vua chúa, của các bậc phụ mẫu, và của Sư phụ thì người không xa Con đường chính trực của lý trí và đức hạnh”. Nhà văn phá đổ những tường rào ngăn cách các tôn giáo bằng lối viết nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, khiêm tốn nhưng rất thực tế, nhìn nhận những giá trị trước đó như những nấc thang kế thừa để đạt đến cái đích hoàn thiện hơn “Từ thời A bờ-raham, khi mà đạo của chúng ta được lập ra, và mãi mãi về sau, chúng ta, những người Do Thái tại Trung Quốc, đã truyền bá sự hiểu biết của Thượng Đế và bù lại, chúng ta đã nhận được sự hiểu biết của Khổng Tử, của Đức Phật và của Lão Tử”. Khi lớn lên trong môi trường của xã hội Trung Quốc, đương  nhiên nữ văn sĩ cũng đã thấy được Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo ăn sâu trong tư tưởng của người dân như thế nào, nên bà đã uyển chuyển trong chính sự dung hòa chứ không hề công kích đả phá. Mặc dù nhân vật đôi lúc cũng quá khích như vị giáo sĩ khi khẳng định rằng “Chúng ta có thể biết có những gì bên ngoài quả đất này, ông thét lên với giọng nói mạnh mẽ và cương quyết. Chính vì điều đó mà Thượng đế đã chọn dân tộc của tôi, để cho chúng tôi có thể vĩnh viễn nhắc nhở nhân loại về sự hiện hữu của Người. Chỉ một mình Người cai trị. Chúng tôi là những con lăn làm chuyển hướng linh hồn con người.

Chúng tôi chỉ được nghỉ ngơi khi nhân loại tin tưởng nơi vị Thượng đế chân chính”.
Cái kết thúc của câu chuyện là một nỗi ưu tư khắc khoải của con người trong hành trình đi tìm Chân - Thiện - Mỹ. Những cái chết đến với một số nhân vật chưa hoàn thành tâm nguyện suốt đời của họ, đó là nỗi khát mong về lại với quê cha đất tổ, xây dựng lại Đền thờ và làm cho mọi người hiệp nhất trong một niềm tin.
Pearl S.Buck đã khép lại tác phẩm “Nô tỳ Mẫu Đơn”, nhưng đã mở ra một chân trời mới cho muôn ngàn lối suy tư của người đọc, người nghe. Tín ngưỡng, tôn giáo, tình yêu và hành động của mỗi một nhân vật, một con người sẽ đạt đến cái chung cục thế nào nếu thế giới cứ mãi thiếu vắng tinh thần HÒA BÌNH và NHÂN BẢN. Tuy lối hành văn của bà khá cổ nhưng tư tưởng rất mới và hợp thời. Nếu thế kỷ XXI là thế kỷ của tôn giáo thì phải chăng mỗi người lo sao truyền bá được niềm tin cho tôn giáo mình để đạp đổ trên tất cả, để chống lại kịch liệt những ai không đồng quan điểm và đồng tôn giáo với mình. Nếu thế thì sự tàn sát đẫm máu, chiến tranh xảy ra một cách vô bổ biết bao như đã từng diễn ra ở một số nước trong những năm về trước. Cho nên, tinh thần hoà đồng, hiệp nhất, tương trợ, cảm thông, tôn trọng luôn luôn cần phải có và phải được lặp lại trong mỗi người, mỗi tôn giáo, để nhờ tình yêu thương, sự hiểu biết lẫn nhau sẽ xây dựng được một xã hội văn minh và giàu tình thương hơn, dù nơi đó có tồn tại đa sắc tộc, đa màu da, đa giai cấp và đa tôn giáo.
V.T.T.H

(nguồn: TCSH số 224 - 10 - 2007)

 



--------------------------
(1) Nô tỳ mẫu đơn - Thu Nga dịch - Nhà xuất bản Hà Nội - trang 84.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.