Sứ mệnh của nhà văn trẻ với những bước chuyển hệ hình trong văn học Việt Nam

08:57 06/09/2011
I. Ba bước chuyển hệ hình trong văn học Việt Nam và vai trò của các nhà văn trẻ

Nếu phân kỳ tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX nhằm trước mắt phục vụ cho việc phác thảo nên sự thay đổi hệ hình (paradigme), trong một chừng mực hết sức tương đối nào đó, ta có thể tạm chia thành bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất khởi nguồn từ truyền thống văn học trung đại Việt Nam cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, giai đoạn thứ hai từ những năm 30 của thế kỷ XX cho đến những năm 45, giai đoạn thứ ba từ giữa những năm 45 cho đến 1986 và giai đoạn thứ tư từ 1986 đến nay, thì có thể thấy, ít nhất đã xảy ra ba bước chuyển hệ hình. Nhưng những bước chuyển hệ hình này, không hàm ý đặt giai đoạn sau ở một trình độ cao hơn giai đoạn trước, cứ hiện đại là cao hơn tiền hiện đại, mà chỉ nhằm chỉ ra đặc trưng tư tưởng nghệ thuật đặc thù của từng giai đoạn văn học sử mà thôi.

Bước chuyển hệ hình thứ nhất, đánh dấu sự chuyển mình từ một nền văn học trung đại mang đặc trưng truyền thống phương Đông, bước sang tư duy văn học phương Tây (tiền hiện đại). Bước chuyển hệ hình này manh nha từ những năm cuối thế kỷ XIX, và thực sự diễn ra vào giai đoạn 1930 - 1945, với sự trình làng và chiếm lĩnh trọn vẹn văn đàn của Thơ Mới, Tự lực văn đoàn, cùng những nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Ở Việt Nam, đây là giai đoạn hiện đại hóa nền văn học nước nhà lần thứ nhất, chuyển từ nền văn học của các trí thức Hán học qua nền văn học của các trí thức Tây học. Giữa tiến trình hiện đại hóa lần thứ nhất của văn học nước nhà đối với trình độ chung của văn học thế giới vẫn có một độ chênh trên dưới gần một thế kỷ. Các trào lưu văn học theo chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực… ở nước ta vẫn nằm trong quỹ đạo của tư duy văn học tiền hiện đại, tồn tại và phát triển ở phương Tây vào thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, tức là nền văn học chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khai sáng. Giai đoạn chuyển đổi hệ hình này trong văn học Việt Nam chứng kiến vai trò cách tân quyết liệt và lập ngôn một cách riết róng của một thế hệ cầm bút trẻ trên dưới hai mươi tuổi như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Nhược Pháp, Hàn Mặc Tử…, đối với thế hệ nhà văn cử tử Nho giáo vẫn chưa mất hẳn uy quyền, và đối với cả truyền thống văn học viết dân tộc trải dài qua mười mấy thế kỷ. Trong cuộc chuyển đổi hệ hình mang tính lịch sử của văn học Việt Nam này, giọng chủ lưu thuộc về một thế hệ cầm bút trẻ, sớm có thành tựu và giọng điệu rõ ràng, thanh âm đặc thù mang phong cách cá nhân.

Tư duy tiền hiện đại trong văn học kéo dài cho đến giữa thế kỷ XX, và vào những năm 1945 đến 1986, mà rõ nét nhất là từ 60 trở đi, đã chứng kiến sự chuyển đổi hệ hình thứ 2, từ tiền hiện đại bước sang hiện đại. Quá trình chuyển biến từ hệ hình từ tiền hiện đại sang hiện đại cũng là quá trình chuyển đổi tư tưởng nghệ thuật thời Khai sáng sang tư tưởng nghệ thuật của trào lưu Tiền phong (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, với các trường phái như Vị lai, Đa đa, Siêu thực…). Đây cũng có thể xem là quá trình hiện đại hóa lần thứ hai của văn học Việt Nam, dù âm thầm và phần nhiều diễn ra trong “bóng tối”. Ở miền Bắc có thể ghi nhận vai trò tiên phong của một thế hệ cầm bút trẻ trên dưới ba mươi tuổi như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm… Ở miền Nam (từ 1954 - 1975) là một thế hệ cầm bút trên dưới 20 tuổi như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng... Một loạt các trào lưu văn học hiện đại như hiện sinh, tượng trưng, siêu thực, lối viết tự động… đã được thể nghiệm và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy có chững lại một thời gian trong quá trình thống nhất, xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, nhưng nhìn chung quá trình phát triển văn học theo tư duy hiện đại vẫn được tiếp nối, và đặc biệt được tiếp sức bởi một thế hệ nhà văn trẻ sau 1986, sau khi đất nước tiến hành đổi mới. Có thể kể đến một số cây bút trẻ vào giai đoạn này như Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Bình Phương…

Quá trình phát triển theo hướng hiện đại của văn học Việt Nam vẫn được tiếp nối qua giai đoạn thứ tư, tức từ 1986 đến nay, nhưng trong giai đoạn này, đã đồng thời xảy ra chuyển đổi hệ hình lần thứ ba, từ hiện đại bước sang hậu hiện đại (gắn liền với tư tưởng nghệ thuật của chủ nghĩa Hậu hiện đại (postmodernism), xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XX ở phương Tây cho đến nay). Hai tiến trình thay đổi hệ hình này ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân, đã được tiến hành song trùng, và khó để có thể phân định rạch ròi. Đặc điểm này một phần xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của văn học Việt Nam, vừa phải tiến hành đổi mới theo hệ hình hậu hiện đại một khi nền tảng hiện đại chưa thực sự hoàn chỉnh như ở phương Tây. Mặt khác, xét về tư tưởng triết học, hiện đại và hậu hiện đại luôn đi liền nhau, bởi dù có xác lập một mối quan hệ nào chăng nữa, hậu hiện đại cũng là một sự phản ứng trực diện với hiện đại. Chủ thể của cuộc chuyển đổi hệ hình lần thứ ba, và đồng thời cũng là quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam lần thứ ba, trước tiên phải kể đến những nhà văn trẻ. Không thể phủ nhận rằng, trong một số sáng tác của các nhà văn thành danh đi trước đã sớm xuất hiện một số yếu tố hậu hiện đại, nhưng chủ yếu mới biểu hiện dưới dạng cảm thức. Nhưng, với tư cách sự tiếp thu tự giác, có ý thức, các sáng tác của nhiều nhà văn trẻ hiện nay, từ 8x, 9x trở đi, yếu tố hậu hiện đại đã xuất hiện hoàn chỉnh hơn, không chỉ trong tâm thức mà còn cả trong hình thức, không chỉ trong văn xuôi mà cả trong thơ, không chỉ trong một trào lưu, khuynh hướng cụ thể mà đa dạng trong nhiều trào lưu, khuynh hướng.

Như vậy, có thể thấy vai trò quan trọng, hoặc có thể mạnh dạn hơn, xem lực lượng cầm bút trẻ luôn là động lực và cũng là chủ thể của các bước chuyển đổi hệ hình, các quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà. Tất nhiên, thời gian thì vẫn phải lầm lũi trôi, con người thì phải già đi, thành tựu trên văn đàn có khi phải đợi một sự lắng đọng và độ chín cả về mặt thời gian. Nhưng cái sức lực Phù Đổng nhằm lật sang trang lịch sử văn học, dám thể nghiệm và dám thất bại, nhằm tìm thấy cho mình một hướng đi mới, dẫu chưa thành công tức thời thì cũng để dành cho tương lai, sứ mệnh ấy chỉ có thể trông chờ vào các cây bút trẻ.

II. Thế hệ nhà văn trẻ trong hoàn cảnh (hậu) hiện đại

Thế hệ nhà văn trẻ hiện nay, từ những người đã thành danh cho đến những người đang khẳng định mình, có một đặc điểm mạnh và những điểm yếu cần chỉ ra. Trước tiên, về những điểm mạnh, có thể thấy họ là một thế hệ nhạy cảm với cái mới, tích cực thể nghiệm với những trào lưu nghệ thuật đương đại của thế giới. Nếu như, các thế hệ sáng tác trẻ giai đoạn trước, đóng vai trò chủ thể trong các bước chuyển hệ hình và các tiến trình hiện đại hóa, thường vẫn phải đi sau phương Tây vài chục năm, ít ra là hai thập niên, có khi nhiều hơn, là cả gần một thế kỷ. Thế hệ cầm bút trẻ ngày nay, nhờ quá trình làm phẳng hóa thế giới của công nghệ số, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đã xóa bỏ những rào cản như những lũy tre làng, nhằm hội nhập với hơi thở của nghệ thuật đương đại.

Chính sách về văn học nghệ thuật của các cấp lãnh đạo hiện nay, từ sau Đổi mới đã tạo nhiều động lực cho văn học phát triển. Tính đối thoại, phản tỉnh, cảm hứng phê phán, các thể nghiệm tân kỳ đã được chấp nhận và khuyến khích. Do đó, văn học hải ngoại và văn học nước ngoài được dịch nhiều ở nước ta, nhà văn trẻ có nhiều đất diễn hơn cho các thể nghiệm của mình, tuy đôi lúc vẫn còn những khó khăn, chưa thực sự được thông cảm. Chính sách ngoại giao và văn hóa đa dạng, không chịu ảnh hưởng trực tiếp và nhất quán của bất kỳ một trung tâm nào, cũng đã tạo điều kiện cho các nhà văn trẻ tiếp xúc trực tiếp, rộng rãi với các trào lưu nghệ thuật ở khắp nơi trên thế giới. Chính nhờ những lý do chủ quan và khách quan đó, thế hệ nhà văn trẻ ngày nay đa giọng điệu hơn, tiếp cận nhanh và trực tiếp hơn với các trào lưu nghệ thuật đương đại như hậu hiện đại, môi trường luận, nữ quyền, hậu thực dân, tân hình thức...

Nhà văn trẻ hiện nay cũng mạnh dạn tự thể hiện và giới thiệu mình với bạn đọc. Họ là những người của công chúng, biết vận dụng các phương tiện truyền thông nhằm quảng bá cho tư tưởng nghệ thuật là tác phẩm của mình. Nhiều nhà văn trẻ đã sớm có những tác phẩm và công trình nghiên cứu được bạn đọc ủng hộ và chào đón hân hoan.

Tuy nhiên, điểm yếu của các nhà văn trẻ hiện nay, đó là chưa kết hợp lại được thành những trường phái nghệ thuật một cách tự giác. Sự đa dạng đến mức tự phát và thiếu những sự tự định hướng nghệ thuật một cách kiên trì và căn cốt đã biến sự đồng đều trong chất lượng nghệ thuật giữa các tác phẩm hết sức bấp bênh, mỗi người đi riêng một đường, không tiếp sức, không chia sẻ, không thi đua, không đối thoại. Chính vì vậy, những giá trị đỉnh cao từ các sáng tác trẻ trong giai đoạn này có lẽ vẫn phải chờ đợi thêm trong tương lai. Ngoài ra, giữa các nhà lý luận - phê bình trẻ và các nhà văn sáng tác trẻ vẫn còn nhiều khoảng cách. Có một thực tế rằng, các nhà văn trẻ thường được “lăng xê” hoặc “bảo kê” từ những nghiên cứu, các nhà văn già. Còn những nhà nghiên cứu lý luận - phê bình trẻ lại chọn các sáng tác của những nhà văn già, hoặc trên thế giới nhằm được “bảo hiểm” và “an toàn” trong nhận định. Nhìn nhận vậy để thấy, những người trẻ nghiên cứu về những người trẻ, và những người trẻ sáng tác cho những người đọc trẻ hiện nay còn hiếm, giữa lý luận - phê bình trẻ với sáng tác trẻ còn một sự e dè nhất định. Tuổi tác của các nhà văn trẻ hiện nay cũng có phần “lão hóa” đi so với thời của thế hệ Thơ Mới. Nhiều nhà văn đã ngoài ba mươi tuổi, xấp xỉ bốn mươi vẫn được xếp vào hàng trẻ tuổi. Những cây bút trên dưới 20 tuổi khẳng định được mình là thực sự hiếm hoi. Thực tế “nở muộn” ấy cũng là điều đáng lo ngại.

 Ngoài ra, việc sáng tác mà không quan tâm đến chủ thể tiếp nhận và không xuất bản chính thức thành văn bản cũng góp phần làm văn học trẻ hiện nay khó tìm chỗ đứng. Vì đời sống văn học bao giờ cũng phải được cấu trúc nên từ bộ ba “tam tài”: tác giả - văn bản - người đọc. Việc chỉ in photo truyền tay, đăng tải mạng, thơ trình diễn, thơ hình thể… dẫu có nhiều tư tưởng nghệ thuật cách tân táo bạo, nhưng lại cắt đứt mối quan hệ với độc giả, hủy tạo sự tồn tại về mặt văn bản. Việc tiếp cận quá nhanh và chưa đầy đủ tận gốc với các hệ hình lý thuyết mới cũng dễ tạo ra những “ngộ nhận” ít nhiều mang tính “hoang tưởng”, chạy theo các mốt hình thức sáng tác mới mà ít chuyên tâm đến việc trau dồi truyền thống văn hóa dân tộc và kinh nghiệm nghề nghiệm.

Từ những nhận định có phần chủ quan và còn nhiều khiếm diện trên, trong giới hạn của mình, chúng tôi vẫn tin rằng, thế hệ cầm bút trẻ hiện nay sẽ đảm nhiệm tốt “trọng trách kép” mà họ đang gánh vác. Một mặt, vừa phải hoàn thiện quá trình phát triển văn học theo tư duy hiện đại, mặt khác, phải tiến hành cuộc chuyển đổi hệ hình sang hậu hiện đại. Biết cách tân và kế thừa, hội nhập và phát huy, đối thoại và đoàn kết, các nhà văn trẻ hiện nay sẽ phải nhận lấy trách nhiệm lịch sử tất yếu của mình một cách tự tin và dũng cảm.

PHAN TUẤN ANH













Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.