Sự lắng lại của một tâm hồn

14:25 01/04/2011
MAI VĂN HOAN(Nhân đọc “Quãng cách lặng im” của Xuân Hoàng)

Nhà thơ Xuân Hoàng - Ảnh: nld.com.vn


Vốn duyên nợ với thơ, tôi đã đọc Xuân Hoàng từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Hồi đó, tôi mến thơ anh vì một lẽ hết sức giản dị: Thơ anh nói đến những gì gần gũi thân thiết đối với tôi. Tôi bồi hồi với những vần thơ anh viết về sông Gianh - con sông chảy ngang qua làng nhỏ quê tôi. Anh nói đến Lèn Bảng - Hòn Lèn chiều chiều tôi thường nhìn ngắm. Tôi chưa nhận thức được một cách rõ ràng như bây giờ, nhưng những câu thơ ấy cứ đi vào tâm hồn tôi một cách tự nhiên như lời ru lắng vào tâm hồn thơ trẻ. Từ đó tôi chăm chú theo dõi thơ anh. Tôi đã đọc “Biển và bờ”, “Dải đất vùng trời”, “Về một mùa gió thổi”… và bây giờ là: “Quãng cách lặng im”! Biết nói thế nào về tập thơ đã gây cho tôi nhiều xúc cảm này? Mỗi người có một cách cảm nhận. Riêng tôi, điều làm cho tôi trân trọng “Quãng cách lặng im” chính là sự lắng lại của một tâm hồn thơ vốn rất say sưa, sôi nổi. So với các tập thơ trước của anh tập thơ này có phần phong phú và đa dạng hơn. Mới đọc lướt qua tưởng như không có gì mới mẻ. Tất cả thơ anh đều thể hiện tình yêu của anh đối với cuộc sống đối với con người, đối với nhân dân, đất nước… Những đề tài quen thuộc ấy, qua mỗi bước đi của lịch sử, qua từng chặng đường đời của từng tác giả lại luôn luôn mới với những sắc thái riêng. Tình yêu ấy ở “Quãng cách lặng im” là tình yêu của một con người đã dâng hiến cả đời mình cho cách mạng, cho thơ ca; là tình yêu của con người đã đi qua những tháng năm bom đạn, đã nếm đủ vị chua ngọt, đã chứng kiến bao nhiêu biến cố lớn lao:

Tôi đã đi. Đã gặp. Đã vui cười
Đã giận dữ. Đã đau buồn. Đã khóc
Giờ gặp biển. Bỗng nhiên bao mệt nhọc
Tự cuộc đời, yên lắng lại trong tôi.

(Về với biển)

Về với biển là cách nói tượng trưng. Biển là niềm khát vọng. Biển là niềm ước mơ. Biển là cuộc đời rộng lớn… Gặp biển là gặp khát vọng, ước mơ, lý tưởng, cuộc đời… Và anh đã không hổ thẹn khi soi mình trước biển mặc dù anh biết mình chỉ là “con sóng nhỏ”. “Con sóng nhỏ” nhưng không phải là con sóng thờ ơ, vô tình chỉ ghi hờ một đường lăn trên cát:

Chút phát hiện trong phút giờ gặp lại
Phải đi qua bao năm tháng bão bùng.


Bởi thế anh vẫn cảm thấy mình vẫn còn rất trẻ, vẫn còn sung sức dẫu mái tóc xanh của anh, anh đã dâng cho biển lâu rồi:

Giờ còn lại những sợi mềm tỏa sáng
Cũng như sóng, dưới chân tôi, bạc trắng
Bên nền xanh của biển tiếp chân trời.


Bài thơ mang tính chất đúc kết cuộc đời. Lời thơ điềm đạm, sâu lắng. Chính sự lắng lại này đã tạo nên âm hưởng chung của “Quãng cách lặng im”. Đó là âm hưởng trầm tĩnh, thầm thì, tha thiết, có pha một chút day dứt mà vẫn không kém phần sôi động, rạo rực.

Ở “Biển và bờ” âm hưởng chủ đạo là âm hưởng anh hùng ca với những bài thơ hừng hực khí thế chiến đấu như “Pu-la-nhích”, “Những tổ đại bàng”, “Ngã ba Lùm-Bùm”…

Ở “Về một mùa gió thổi”, cảm xúc của anh đằm lại. Anh say sưa chiêm ngưỡng cảnh sắc thêm nhiều với những cảm nhận tinh tế trong “Sông Cầu”, “Một chiều Đồng Hới”, “Mưa Huế”…

“Quãng cách lặng im” anh vẫn mang chất lãng mạn sôi nổi của anh, nhưng tất cả như lắng vào bên trong. Có lẽ bởi vì giờ đây anh có thời gian để suy nghĩ nhiều hơn, để nhìn lại mình kỹ hơn. Chúng ta gặp trong “Quãng cách lặng im” những “phút giây riêng”. Khuynh hướng chung trong “Quãng cách lặng im” là khuynh hướng đi vào nội tâm, bày giải những nỗi niềm sâu kín. Đọc “Biển và bờ”, “Về một mùa gió thổi” ta hiểu đất nước nhiều hơn là hiểu nhà thơ. Ở “Quãng cách lặng im” không những ta hiểu thêm về đất nước mà còn hiểu khá kỹ về Xuân Hoàng với những niềm vui và nỗi buồn thành thực. Anh không giấu “những vết thương vô ý tự gây nên” anh không giấu:

(Con người thực cần tôi bên cánh cửa
   Cái ở
            Cái ăn
                        Cái mặc hàng ngày…)

Anh nói ra những điều đó mà không sợ người đọc hiểu lầm về anh. Không những thế chính sự bộc bạch thật thà ấy càng làm cho người đọc cảm mến anh hơn, gần gũi với anh hơn. Những câu thơ như những lời ghi chú bình thường ấy lại có vị trí hết sức đặc biệt. Nó góp phần xóa đi cái khoảng cách giữa anh và người đọc. Anh không kênh kiệu, cao đạo khác đời, khác người. Anh muốn hòa trong mọi người nhưng vẫn là anh - một Xuân Hoàng nhạy bén và đa cảm:

Khi tóc anh bạc rồi
Em là hoa me đất
Nở trong chiều xa lắc
Tím hồng màu thời gian
Đội cánh dù xanh biếc
Đến cùng anh tha thiết.


Chung quanh “Hoa chua me đất” đã nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Với tôi, đây là một trong những bài thơ hay trong tập. Tôi đã có dịp chứng kiến một đồng nghiệp của tôi đọc bài thơ này trước sinh viên và rơm rớm nước mắt. Cả giảng đường lặng đi với giọng đọc giàu sức truyền cảm của anh. Phải rất nhạy bén và đa cảm, phải yêu tha thiết cuộc đời mới viết được những câu thơ có sức lay động lòng người như thế.

Bên cạnh niềm vui về một thị xã đang dựng xây anh có nỗi bâng khuâng với “vầng trăng kỷ niệm” vừa nhô lên trên biển Vũng Tàu. Bên cạnh không khí lãng mạn của một chiều hải đảo: chim én bay quanh quán rượu xập xè. Anh có nét trầm tư của Cồn Cỏ giữa trưa đứng gió. Phút im lặng là giây phút anh suy ngẫm bao ba động cuộc đời:

Nhiều kỷ niệm xa rồi, nên nhắc hay quên
Một tình bạn rẽ đôi, một mối tình đã chết
Một mầm nhớ tưởng chừng không dễ biết
Một âm ba rất lặng của ưu phiền


Người đọc bắt gặp trong “Quãng cách lặng im” những tình cảm hết sức trong sáng, lành mạnh. Thơ anh đôn hậu như chính con người của anh. Anh thương một tiếng ve bị người đời quên lãng, thương một làn hương cũ khi trở về phố biển quê hương, thương cây đèn biển đứng chơ vơ bên cửa sông một thị xã bị tàn phá trong chiến tranh chưa kịp xây dựng lại, thương nhành mai nở lặng lẽ một mình:

Chỉ thơm trong sắc lặng thinh
Và sẽ thơm như thế, không ai biết
Trong núi, như trời, đất, với hoa

(Mai vàng và mùa xuân)

Bài thơ “Khi nào thấy” đã chiếm được cảm tình của rất nhiều bạn đọc. Cả bài thơ toát lên tấm lòng nhân hậu độ lượng, bao dung của anh đối với mọi người, nó biểu hiện một cách rõ nét, sự lắng lại của một tâm hồn đã trải qua bao nhiêu thử thách:

Nếu cần nữa, tôi là hồ trên núi
Trong hoang vu im lặng ngắm mây trời
Em hãy đến, chim thiên nga, cánh mỏi
Đậu yên lành trên gương mặt hồ tôi


Không gian và thời gian trong rất nhiều bài thơ dường như cùng lắng lại cùng với tâm hồn tác giả. Đây là cảnh hoàng hôn trên hải đảo:

Mặt trời xuống, làng chài lên khói bếp
Núi nghiêm trang soi bóng xuống chân bờ
Tiếng trẻ gọi vang dài thung lũng hẹp
Con cún nào trong xóm sủa vu vơ


Và đây là cảnh Bàu Tró một chiều bình yên:

Cát vàng lắng tiếng dương reo
Cánh chim cun cút cắt vèo thinh không


Xuân Hoàng không cầu kỳ lập dị, không chạy theo “mốt” để hợp thời trang. Anh không gò thơ mình vào một thể cố định. Dù viết thơ 5 chữ, 7 chữ, lục bát hay câu thơ dài ngắn không đều ta vẫn có thể nhận ra giọng điệu của anh. Anh không ưa lòe kiến thức để tỏ ra uyên bác. Anh đưa những hiểu biết của mình vào thơ rất tự nhiên. Trong bài “Sen trắng” anh gợi thơ Lý Bạch một cách kín đáo:

Không thấy người hái sen
Chèo thuyền trong nắng sớm


Anh cũng không “hiện đại” theo kiểu học đòi. Anh có nhiều cách nói sáng tạo nhưng vẫn in đậm phong cách của anh:

Ngập ngừng hơi gió se se
Sáng ra thu đã đứng kề bên hiên

(Vùng biển sang thu)

Có một thời em lạc vào quĩ đạo
Thành vệ tinh màu trắng không về

(Con tàu trắng)

Xoài xanh nay đã chín rồi
Chẳng hay giọt lệ có muồi theo hương

(Mùa xoài)



Tất cả đó đều chứng tỏ sự lắng lại của một tâm hồn!

 “Quãng cách lặng im” là tính chất được lọc ra trong hơn hai mươi năm lăn lộn với thơ. Anh đã mạnh dạn gạt bỏ những chi tiết rườm rà, những kể lể dài dòng, những ngôn từ mòn sáo. Sau một chặng đường dài trăn trở, tìm kiếm phải chăng Xuân Hoàng đang càng ngày càng đến gần với cái đẹp của thơ ca chân chính. Hiện nay thơ đang là vấn đề thời sự. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra cho thơ trong chặng đường mới này, “Quãng cách lặng im” phải chăng là một cách phát biểu của Xuân Hoàng?

Có nhiều con nhộng biển
Đang chờ ngày xé tơ
Có nhiều con bướm biển
Đang rụng cánh từng giờ
Tôi trở lại là tằm
Nhả ra nhiều sợi ánh
Dệt nghìn vuông lụa sáng
Cho cuộc đời và em!

(Trước biển)

Còn nhiều điều tôi muốn nói về “Quãng cách lặng im” và cũng còn đôi bài thơ, đôi câu thơ trong tập tôi chưa thích lắm. Biết làm sao được! Đòi hỏi của người đọc thì vô cùng mà tài năng của bất cứ thi sĩ nào cũng có giới hạn. Thành công của anh trong tập thơ này là kết quả của một quá trình phấn đấu thầm lặng, gay go và gian khổ:

Quãng cách nói gì ở đây
Có bao việc làm không nói
Giữa chiều bom rơi đồi sỏi
Và chiều Đà Lạt hôm nay…


Huế, tháng 1-1985
M.V.H.
(14/8-85)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?