LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
(Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)
Thơ, ngay trong bản thể chính nó đã là một thế giới của những cảm thức dung tụ, thoát hiện bằng một hệ tầng hình tượng ngôn ngữ. Người thơ hòa vào biển từ bao la để thiết lập nên thế giới theo quán giải của riêng mình. Điều ảo diệu của thơ lắng mặn trong tàng thức của chúng ta, và khi mạch nguồn được khơi mở, những ám gợi sẽ tung vỡ để tạo nên những hồn thơ hoài hoải kiếp người. Chúng ta đọc được những tâm cảm đó qua ngôn ngữ thơ Lê Huỳnh Lâm, về một “cõi riêng” mà anh đang “phát quang” từ rừng chữ thăm thẳm đang không ngừng nhảy múa.
Từ tập thơ đầu tay Thi ca mùa ngái ngủ với ý hướng “Muốn vượt qua những lối mòn đang đẩy nghệ thuật quẩn quanh trong khu rừng của sự mỹ miều nhưng trống rỗng” (Phạm Tấn Hầu), nay anh tiếp tục “tái xuất” với những dòng chữ ám dụ của Mật ngôn để chứng khảm bao điều biến hiện, đầy vẻ huyễn hoặc của thực tại.
Những bài thơ đa phần được dẫn dụ từ thái độ sống và cách nhìn nhận đến từ những bế tắc, hoài nghi và thắc thỏm. Hàng loạt biểu tượng kiến thiết trên cái nền ấy, trong một dung môi thời gian và không gian chảy xuyết ẩn ức. Thơ Lê Huỳnh Lâm ít nhiều mang dáng dấp tính chất Tiểu tự sự (Petit Narrative) của chủ nghĩa Hậu hiện đại. Những nhận thức về thế giới hiện tồn qua những ảnh tượng hoặc bế thảm hoặc khởi sắc trong bi lụy đang trên tiến trình bất định, gợi mở một khả năng chân lí lẻ loi, nhưng đâu đó vẫn là trạng thái đầy hoài nghi, luôn đứt gãy, dị biệt và lạc lõng của lí trí.
Với dòng chảy đó, đầu tiên, Lê Huỳnh Lâm đã phát hiện ra những bế tắc không hợp lí của con người và của chính cái bản ngã mình vốn đã được “mặc định” theo ý hướng thiêng liêng. Sự bế tắc đến từ những biểu tượng từ con người, con vật, cây cỏ mà rộng lớn nhất là đến từ sự thâm cùng của vũ trụ khắc khoải: Tiếng đêm/ Xé rách màn trinh mặt trời/ Loang lổ màu kinh/ Bừng cháy (Tiếng đêm).
Những xung đột của thời khắc và không gian được thấu hiện, là đêm, là mặt trời, là tối, là sáng, luôn giẫm đạp lên nhau. Một vụ big bang được thấu hiện. Ngay cả vũ trụ đã chứa đựng những điều hằng diễn tưởng chừng là yên ổn hóa ra bất ổn. Từ trong bóng tối tiếng đêm kinh hoàng, nơi dung chứa tội lỗi, điều bất thiện luôn sẵn sàng đánh đổ những chân giá trị và dám Xé rách màn trinh mặt trời.
Mặt trời ấy, nếu là chân lí, ắt hẳn là chân lí tuyệt đối được thức nhận vĩnh cửu từ thuở hồng hoang. Và cũng chính chân lí ấy hiện phải đối mặt: Nước vẫn bay trên đôi cánh mặt trời/ Mặt trời nở hoa ngập máu (Trên con đường sẽ không còn dấu chân anh).
Không còn là diễm ảnh của thứ ánh sáng kì vĩ, mặt trời dường như đang đi vào quỹ đạo sáng không tự chủ Mặt trời nở hoa ngập máu. Nếu có thể vẽ một bức tranh, đây có thể là một tác phẩm hội họa tuyệt vời. Sự phóng tưởng đã đẩy người thơ lại gần với chân lí - mặt trời để trực nhận khoảnh khắc vi tế ấy.
Vũ trụ đã kinh qua vụ big bang lớn, trong khi đó con người - tiểu vũ trụ đang đối mặt với vụ big bang bế tắc. Khi bàn đến con người, trung tâm của thế giới thơ, Lê Huỳnh Lâm biên khảo ra hội chứng vô cảm của nhân tâm con người như cái hiện tượng:
Mảng xám trên chiếc băng ca ngả màu
Loang lổ vệt huyết
Và sự điềm nhiên trên những đôi mắt.
(Buổi sáng trên sông Hương)
Một buổi sáng không hề êm đềm trên dòng sông thi ca xứ Huế. Người thơ đã chộp lại hình ảnh quá đỗi bình thường của những con người quá đỗi vô cảm ngay chính nỗi đau đồng loại. Câu hỏi lớn về đạo làm người thất lỡ lương tri, tình thương bị phân giải thành thứ vật chất thô cứng, vô hồn.
Tiếp đó, trong cái thế giới người bế tắc mà Lê Huỳnh Lâm vẽ ra, không ít những hình ảnh huyễn hoặc, bí nhiệm đã hiện lên: “Những viên gạch đậy che bí tích/ Loang lổ bước đèn vàng/ Bóng người đàn ông làm tình chiếc bóng” (Đêm rên siết trong vòng tay mười hai ngón).
Lại một vết xước được cậy lên từ đêm. Một đêm tối được đặt kì dị như chính cái tên bài thơ: Đêm rên siết trong vòng tay mười hai ngón. Sự nhầm lẫn của con số hay chính là cái sự thực khó chấp nhận của điều bất bình thường vòng tay mười hai ngón đã cảnh báo về một ảnh tượng còn “khó chấp nhận” hơn: “Bóng người đàn ông làm tình chiếc bóng”. Từ đêm, những đam mê cô độc đã cháy, đã diễn đi những ý niệm phân tâm của cái gọi là hành vi sai lạc (Freud). Không, đó là bế tắc và hẳn là bế tắc của một sinh linh tha hóa đi bản thể của chính mình.
Và cũng chính trong tập Mật ngôn này, Lê Huỳnh Lâm khi bàn đến sự bế tắc, thảm cảnh của cõi người đã phần nào bật mí cái nguyên do sâu kín:
trên những bộ mặt vắng đức tin
triệu con mắt vô tình/ triệu cái miệng câm nín
thèm nghe kinh cầu an
(Bình minh đen)
Chối bỏ đức tin đồng nghĩa với chối bỏ tâm linh, thế giới huyền nhiệm mà nhãn giới con người khó có thể nắm bắt. Một loạt trạng thái vắng đức tin - vô tình - câm nín của con người vốn chỉ thấy mình, thỏa mãn thực tại trống rỗng tình người để rồi ngày mai đón chờ một Bình minh đen khó tránh. Đó hẳn là dụ ngôn bị phủ lấp bởi lớp vỏ vật chất phù hoa làm con người quên đi viên ngọc cần phải rèn giũa để thắp sáng phần tâm nhân bản luôn có sẵn trong mỗi cá thể.
Sự khủng hoảng đã lên đến tột đỉnh của sự bế tắc khốn cùng của kiếp người:
Người thiếu phụ rao bán giấc mơ
Giữa mùa hạ muộn màng
(Một ngày và một đêm)
Đến giấc mơ cũng đem đi rao bán, có lẽ chẳng còn gì có giá trị hơn những ảo ảnh chiêm bao nơi còn sót lại những gì loài người khao khát Giữa mùa hạ muộn màng. Thi cảnh mà Lê Huỳnh Lâm vẽ ra trong câu thơ chất ngất hình tượng này, một lần nữa có thể gọi là một tác phẩm hội họa đầy đủ bố cục, màu sắc, hình tượng, ý tưởng tròn trĩnh...
Vũ trụ và con người - tiểu vũ trụ trong thế giới thơ của Lê Huỳnh Lâm đương đối mặt với bế tắc, những mối nguy rình rập. Những đổ vỡ đã được xác nhận, mảng chìm, mảng nổi, trong và ngoài, lớn và bé. Ngay như loài sinh vật tượng trưng cho sự phóng tưởng niềm hân hoan cao vút như giống chim cũng phải đối mặt: “Những con chim trú mình bật khóc/ Phá sản sự thiêng liêng” (Thời khắc Nam Giao).
Mượn chim luận người. Thời khắc ấy đã đến, thời khắc thiêng liêng đã bị phá sản qua sự tế cúng hình thức. Bấy nhiêu tín điều thô ráp đã phơi bày, bấy nhiêu hờn khổ kinh trải rất vi tế. Người thơ đã đắm mình, thật sự chìm sâu giữa biển khơi bất ổn. Chúng ta còn bắt gặp cả những thi ảnh sầu rượi được nhận biết từ:
Hàng cây ưu tư nở những trái buồn
Gắn vào nét mặt ruộng đồng
Những dòng xanh hoang lạnh
(Tiếng gọi của đất)
Ngay cả cây cối cũng bị phơi nhiễm những trăn trở toát ra từ nhân thế. Để bói ra những trái buồn như một hệ quả bất ổn triền miền. Mượn cảnh nói người, mô phỏng tâm trạng rối bời hoang lạnh như chính dòng sông cô độc. Toàn cảnh vật phủ lên thứ dung ảnh ảm đạm.
Một ảnh tượng của sự thanh khiết: Hoa - dung nhan cuộc sống đã được người thơ kiếm tìm, thay vì là niềm vui được chiêm ngưỡng cái đẹp lại phủ lên một ám ảnh: Hoa nở tràn nấm mồ/ Phủ kín mặt đất tật nguyền (Hư vô).
Những nỗi buồn vọng lại từ ngay chính phút huy hoàng, thiêng liêng của lịch sử khi tất cả được bạch định bằng sự tri ân, hồi cố. Chúng ta đã làm nên lịch sử và trả giá cho lịch sử là nấm mồ, là nghĩa trang. Để rồi dùng hoa để quên đi tất cả bằng màu sắc êm dịu, lãng quên trong nỗi buồn thiên thu tật nguyền.
Nếu chỉ diễn đạt thế giới chỉ là bế tắc, mãi bế tắc không có lối thoát ắt hẳn không một người thơ nào muốn vậy. Thế giới Lê Huỳnh Lâm vẫn có những ánh đuốc, những bông hoa được hoài sinh từ đổ nát. Đầu tiên, đức tin được chọn lựa để khỏa lấp cái hố hèn mọn đang nới rộng: Chỉ còn tin vào những gốc cây ven đường/ Ai đó đã dựng lên những mái nhà linh hồn (Buổi sáng trên sông Hương).
Khi mọi tín ngưỡng đều di trú hình thức, con người đã tìm lại những chốn thiêng gần gũi. Những am thờ dưới những tán cây linh thiêng, dễ gặp bất cứ nơi đâu. Đó chính là những mái nhà linh hồn xứng đáng, là nơi trú xứ của bao điều tâm linh.
Con người cũng đang quay trở về, để không đánh rơi mình trên bước đường nhân thế gian truân:
em làm dấu thánh trên cánh đồng
linh tượng buồn trăm năm nở loài hoa dại (†).
Ngay cả khi thời gian chết đi, sự hoài sinh vẫn là khát khao thơm ngát: Khi tất cả những chiếc đồng hồ ngừng lại/ Anh hái đóa thời gian thả vào mạch máu/ Hai bờ ngực trái nở hoa (Khi tất cả những chiếc đồng hồ ngừng lại).
Đoạn thơ này khiến chúng ta nhớ đến một câu nói bất hủ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa”. Ánh sáng luôn ở cuối còn đường, hãy hi vọng, hãy đặt bông hoa lên mình để Hai bờ ngực trái nở hoa như Lê Huỳnh Lâm mường tượng. Giờ đây, hoa lại nở rộ bằng chính linh hồn nó để thanh lọc:
Những ươn hèn bùng lên thành ngọn sóng/ Cánh đồng tội ác nở bạt ngàn đóa sen (Ký tượng buồn).
Và sen thánh thiện đã nở trên Cánh đồng tội ác để làm lu mờ tất cả, hãm đi cái mùi tanh nhơ của tội lỗi. Chân - thiện - mỹ được xác lập, được ngự trị. Đó là ngọn đuốc dẫn đường, là mái nhà chở che, là âm thanh hiền hậu: Chỉ còn tiếng thét triệu năm vọng lại/ Hóa lời ru trên đôi môi mẹ hiền (Nơi tận cùng).
Từ tiếng thét chuyển biến qua lời ru tất yếu là một sự tiến hóa tuyệt vời của con người, sản phẩm từ thời gian. Sự hoài sinh hiện hữu bởi đóa hoa thiện nhẫn, là lời ru hiền dịu, ngọt ngào của mẹ mãi thơm ngát giữa biển đời lao lung. Cuối cùng, Lương tri được đánh thức rất tự nhiên như chính điều “bất khả tư nghị” đồng hành với con người:
Ánh sáng không phát ra từ mặt trời
Ánh sáng không phát ra từ những cái đầu đen tối
Ánh sáng trên những bàn tay/ Biết chìa ra, biết ôm vào
(Trên con đường sẽ không còn dấu chân anh)
Mọi sự bất hợp lí, mọi sự lung lạc phút chốc được sắp xếp theo một trật tự, chỉnh chu. Người thơ đã chọn ra được ánh sáng xuất phát từ chân lí:
Ánh sáng trên những bàn tay
Biết chìa ra, biết ôm vào.
Đó là thứ ánh sáng bất diệt của lòng nhân ái mà con người được tạo hóa gieo mầm ban sơ: muôn đời gìn giữ, muôn đời tinh tấn, hẳn vậy.
Từ bước chân khẽ khàng của Thi ca mùa ngái ngủ khắc đậm dấu ấn tinh khôi và ẩn giấu lẽ chân nhiên đầy ám mị, Mật ngôn có phần nhích gót ra ngoài biên độ mỹ miều, để tái tập trung “một cuộc đại phẫu” suốt từ vũ trụ cao rộng, đến con người… và cả bông hoa vi mô. Biên độ được nới rộng, thơ trở thành mạch nguồn ăm ắp nước nuôi dưỡng cánh đồng lương tri đang ngày càng khô kiệt. Giá như phù sa được cô đặc, dòng sông sẽ không phải vật mình vì lưu vực rộng mở để ban phát sự phì nhiêu.
Những dòng Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm là tiếng nói nội tâm văng vẳng từ thẳm sâu tiềm thức. Một thế giới vừa rối ren, cùng quẫn lại vừa huyễn hoặc, si mê lạ thường. Mọi vỉa tầng có khi đang suy tàn, tăm tối nhưng lại luôn nung náu một sức sống mãnh liệt sẵn sàng khỏa lấp thứ bóng tối vô minh đáng nguyền rủa. Mặt trời sẽ vẫn nở hoa soi rọi chân lí và hoa sẽ luôn tỏa ánh hương diệu vợi thanh tẩy mọi hoen rỉ của thế giới người tạm bợ. Khi ấy, thơ là dạng linh hồn tinh khiết vỗ cánh bay cao.
Lập hạ - 2012
L.V.T.G
(SH282/08-12)
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?