“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
“Ký ức con người - điều kỳ diệu. Và văn chương chính là điều kỳ diệu tiếp theo. Đó là nơi ghi lại toàn bộ cuộc sống của con người, từ hình ảnh đến những trạng thái tinh thần tế vi nhất ở mỗi thời đoạn mà không máy móc, phương tiện nào có thể sánh được! Và như vậy hệ luận quan trọng sẽ là: Hãy cố gắng nuôi dưỡng ký ức sáng tươi của con người và tuyệt đối không được để mất văn chương. Văn chương, nơi lưu giữ bóng hình cuộc sống một cách trung thực nhất, đầy đủ nhất. Văn chương, nơi phóng chiếu ảnh hình một thời đại!”. Nhà văn Ma Văn Kháng |
Ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời trai trẻ Thiếu sinh quân” (Nhà xuất bản Kim Đồng, quý II.2019) viết về giai đoạn các em thiếu niên sau thời gian góp sức cùng lớp đàn anh trên các mặt trận kháng chiến, được sự quan tâm săn sóc của Bác Hồ, Tổng Quân ủy Trung ương, trở về mái trường thiếu sinh quân học tập, rèn luyện, để sau này trở thành lớp người kế cận có trình độ quân sự và văn hóa, phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Cơ sở để tạo nên cấu trúc cuốn sách chính là các sự kiện có thật trong lịch sử biên niên của Trường Thiếu sinh quân Trung ương (sau đổi tên là Trường Thiếu sinh quân Việt Nam), được thành lập tại ATK - An Toàn Khu, Thái Nguyên, trong Liên Khu Việt Bắc, tồn tại từ đầu năm 1949 đến giữa năm 1951, mà nhà văn Ma Văn Kháng vinh dự là một thiếu sinh của trường từ những ngày đầu cho đến khi trường chuyển sang nước ngoài. Đại đội trưởng Đại đội của ông hồi ấy là nhạc sĩ Phạm Tuyên. Các bạn của ông có: Nhà văn, dịch giả Hoàng Thúy Toàn, nhà giáo ưu tú Vũ Thế Khôi, nhạc sĩ Phan Phúc, hay nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Mão…
Tác phẩm được hoàn thành cơ bản chỉ trong vòng 28 ngày (mặc dù tác giả đề ở cuối bản thảo ngày khởi thảo là 23.4.2016 và ngày hoàn thành 18.5.2018 - “một sự sai lệch cố ý để khỏi phải rầy rà khi trả lời nếu có ai nghi ngờ hỏi sao viết nhanh thế”), với gần 300 trang in khổ 13,5 x 20,5cm. “Một tốc độ phi mã bất ngờ với chính tôi!”. Và như nhà văn Ma Văn Kháng lý giải, ấy là vì sự thúc ép của tuổi tác, và sự trỗi dậy giục giã của ký ức. “May mắn, khi tuổi đã cao, sự sa sút trí tuệ đã xuất hiện, tôi vẫn còn chút minh mẫn để nhớ lại các chuyện đã xảy ra cách đây 70 năm, với nhiều hương vị sắc màu xúc cảm riêng… Tôi còn nhớ như in cảnh sắc không khí một chuyến đò dọc, chân dung đặc điểm những con người thuộc nhiều tầng lớp và gần như toàn bộ cuộc sống sinh hoạt ngôn ngữ của lớp thiếu niên chúng tôi thời đó và cố dựng lại bằng nghệ thuật tiểu thuyết”.
Miêu tả lại cảnh quan, không khí sinh hoạt một thời, cuốn sách đã khắc họa sinh động và rõ nét chân dung một lớp thiếu niên: Yêu nước, gan dạ, thông minh, đa năng, nhiệt thành và được rèn luyện học tập hấp thu một nền văn hóa có tác dụng hình thành nhân cách thế hệ thanh niên hữu ích cho xã hội. Nhân vật chính là Trọng Đoan - một thiếu niên sinh ra trong gia đình tiểu tư sản, bắt đầu cuộc đời là đội viên Đội truyền bá vệ sinh của Cục Quân Y, trải qua bao gian khó trong học tập và rèn luyện, đặc biệt, phải đối mặt với thử thách lớn lao là mất cha, đã từng bước trưởng thành trong môi trường Thiếu sinh quân... Bên cạnh đó còn có tổ tam tam A trưởng Toàn nghiêm ngắn, chỉn chu; Khánh công tử đẹp trai láu lỉnh; bộ ba tướng - sĩ - tượng Thiết Đen, Kim Diểu, Lục hạt mít nghịch ngợm; Sáng - cậu bé Tây lai cùng chú chó Jack ngộ nghĩnh…
Tác phẩm cuốn độc giả qua nhiều cung bậc cảm xúc. Những phút giây xúc động sẻ chia cùng nhau nỗi nhớ nhà, san sẻ nâng đỡ nhau trong lúc yếu đau mệt mỏi. Những giờ phút gay cấn khi trường bị địch tấn công. Hay khoảnh khắc căng thẳng rồi cười ra nước mắt trước trò nghịch ngợm của bộ ba tướng - sĩ - tượng. Phút giây vỡ òa hạnh phúc của những Thiếu sinh quân nhỏ tuổi khi được gặp Bác Hồ... Quê hương tuổi thơ - làng Kim Liên xưa với những nét đẹp cổ kính, giàu truyền thống văn hóa cũng được nhà văn ưu ái, dành những trang viết chất chứa niềm tự hào. Hình ảnh người cha tháo vát, người mẹ tảo tần - “những công dân lương thiện và quả cảm, biết hy sinh chịu đựng, giàu lòng yêu nước” - cũng được khắc họa với tất cả tình yêu thương, lòng thành kính, biết ơn…
Kể lại một câu chuyện đã cách đây đã lâu, trung thành với nó, dựng lại nó sao cho chân thật, nhưng vấn đề là người kể đứng ở tâm thế nào? “Tôi chọn tâm thế của con người hôm nay! Nghĩa là dùng con mắt, tầm nhìn, tầm văn hóa của con người hôm nay để xem xét các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Và như vậy, câu chuyện sẽ không sa vào sự kể lể nôm na, sơ giản như nó vốn có. Tiêu biểu có thể dẫn như khi tôi dựng lại cảnh lửa trại (Chương 9) và việc tái hiện cuộc tản cư của gia đình ba mẹ nhân vật Đoan (Chương 15, Chương 16)… Đó là điều theo tôi nghĩ là cần thiết và hợp lý. Sách in ra là cho bạn đọc của ngày hôm nay” - nhà văn Ma Văn Kháng chia sẻ.
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.