Sự gặp gỡ của một số motif trong tiểu thuyết 'Giữa vòng vây trần gian' (Nguyễn Danh Lam) và 'Người đàn bà trong cồn cát' (Kobo Abe)

08:07 26/08/2015

NGUYỄN THÁI HOÀNG    

Đi từ triết học đến văn học, quan niệm về hiện tồn phi lí trở thành cảm thức phổ biến của con người hiện đại trước tình thế tồn tại chông chênh, mù mờ bất khả giải.

Nhà văn Kobo Abe - Ảnh: internet

Người đàn bà trong cồn cát (1962) của Kobo Abe - một trong những nhà văn quan trọng nhất của văn học Nhật Bản thế kỉ XX, là huyền thoại về thân phận phi lí của con người trong xã hội công nghiệp, bị quên lãng song không ngừng nỗ lực tìm lại tự do và ý nghĩa đời sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, bi đát nhất. Giữa vòng vây trần gian (2005) của Nguyễn Danh Lam là cuốn tiểu thuyết mang đậm màu sắc phi lí, thể hiện quan niệm về cõi nhân gian vừa là chốn lưu đày vừa là lẽ sống. Nghệ thuật thể hiện cái phi lí trong hai tác phẩm này có nhiều điểm tương đồng khá thú vị. Ở đây, chúng tôi chỉ khảo sát sự gặp gỡ trong việc sử dụng một số motif để thể hiện tính chất phi lí của đời sống và thân phận con người ở hai tác phẩm.
 

1. Motif lạc vào xứ sở kì lạ

Người đàn bà trong cồn cát Giữa vòng vây trần gian đều được xây dựng trên motif lạc đường. Lạc đường, các nhân vật bị đẩy vào một thế giới kì quặc để thấm thía nỗi cô đơn của cá nhân không thể hòa nhập cộng đồng. Kiểu motif này cho thấy tính cạm bẫy và ngẫu nhiên đến phi lí của đời sống. Nhân vật đột ngột lâm vào tình thế nghiệt ngã đơn giản chỉ như tai bay vạ gió, không lường được và không thể lí giải. Trong tiểu thuyết Người đàn bà trong cồn cát của Kobo Abe, nhà côn trùng học Niki Jumpei bắt đầu bi kịch bằng những bước chân đi lạc. Trong lúc đi tìm mẫu côn trùng anh ta đã lạc vào xứ cát, bị buộc phải ở lại trong hố cát với người phụ nữ có chồng con chết trong trận bão cát kinh hoàng, ngày ngày làm công việc đào cát phi lí. Trong Giữa vòng vây trần gian, nhân vật Thữc chạy trốn bởi một lí do phi lí (một nhóm người không biết là ai đột nhiên đến lục tung căn phòng không biết vì lí do gì trong một đêm anh ta vắng nhà) và lạc vào thế giới không bình thường mà anh ta dần dần nhận ra bắt đầu từ sự kì lạ của nhịp thời gian.

Triết học hiện sinh quan niệm người “vốn là vật bị bỏ rơi”(1) giữa cõi đời trầm luân. Con người và cuộc đời là một cái gì ngẫu nhiên, phi lí đến tàn nhẫn. Lạc vào thế giới kì lạ thực ra cũng chỉ là việc bước từ cõi lưu đày này vào cõi lưu đày khác bởi cuộc sống của Thữc khi anh ta chưa chạy trốn vốn cũng đã bệ rạc, hôi hám như “luôn có một cái gì đó phân hủy trong mình”(2). Cuộc sống thành thị của Niki Jumpei dù không được nhắc đến nhiều nhưng cũng đủ để người đọc biết đó là một cuộc sống nhàm chán, nặng nề vì trách nhiệm và sự biến mất của anh ta chỉ như vệt khói tan loãng dưới vòm trời rộng lớn mà không hề để lại chút dấu vết. Câu chuyện về Thữc hay Niki Jumpei đều phi lí như cách nó bắt đầu. Thế giới mà họ lạc đến và bị giam cầm chính là kiếp nhân sinh biến ảo khôn lường, thậm chí nhân vật Thữc cũng không biết mình còn sống hay đã chết. Xứ sở Thữc bước vào chập chờn hư thực, âm dương lẫn lộn. Những kẻ hiếm hoi anh ta gặp như người lái xe, hai ông già trên thuyền với cuộc tìm kiếm kì lạ, hai mẹ con cô gái không rõ là người hay ma. Ngay cả lời nói của các nhân vật (ông già đen, ông già trắng, cô gái) cũng mang tính chất nước đôi, chập chờn, lấp lửng, cách họ trả lời câu hỏi của Thữc chỉ càng làm anh ta rối bời, hồ nghi, căng thẳng. Nhân gian là cõi vắng nhuốm màu phi lí tàn bạo. Một vài con người không tên tuổi xuất hiện chập chờn trong cuộc trốn chạy ấy (người lái xe, ông già đen, ông già trắng, người phụ nữ) như kẻ đưa đường không tin cậy, làm cho Thữc càng cô độc hoang mang. Vùng đất Niki Jumpei lạc đến cũng “có một cái gì là lạ trong cách sắp xếp không gian”(3), những ngôi làng “nom nhỏ mà trải rộng ra tới mức không ngờ”(4), con đường “mỗi lúc một cao dần” trong khi lẽ ra nó “phải thấp xuống mới hợp lẽ tự nhiên”(5)… Con người ở đây cũng lạ lùng, cần mẫn với lẽ sống kì dị dành cho những ngôi nhà lún sâu trong hố cát, ngủ ngày, thức đêm - “sống chỉ để dọn cát”(6). Đó là thế giới của những con người bị quên lãng, thế giới đọa đày dù theo như lời kể của nhân vật thì có vẻ không cách con đường lớn quá xa. Ở xứ sở mang tính chất ảo tưởng của Kobo Abe và Nguyễn Danh Lam hoạt động sinh hoạt hằng ngày cũng trở nên phi lí, hoài công, vô nghĩa như anh chàng Sisyphus bị trừng phạt trong huyền thoại. Trong Người đàn bà trong cồn cát, người phụ nữ và dân làng thức suốt đêm dọn cát để đến hôm sau cát lại đổ xuống vùi đến nửa ngôi nhà. Sống trong hố cát, con người chỉ còn “như một loài côn trùng nào đó”, một “tâm hồn quá nhỏ bé”(7), “một sự tồn tại đều đều buồn bã nằm gọn trong tầm mắt của ta”(8). Trong tiểu thuyết của Nguyễn Danh Lam, cuộc sống của cô gái và “dân làng” cũng xoay trong vòng luẩn quẩn phi lí như thế. Nhà cửa tạm bợ, mỗi mùa gió cuốn cát về xóa sổ tất cả, người dân kéo nhau vào trốn trong núi, hết mùa gió trở về cùng nhau dựng lại nhà, “dựng lại, để rồi nửa năm gió lại phá đi. Năm sau lại thế”(9). Phi lí đến cả sinh hoạt của cô gái: “Cô gái cầm lên một cây chổi, bắt đầu quét quanh. Sân nhà bạc trắng cứt gà (…). Cô gái cứ cầm chổi quét mãi. Quét đến đầu sân, cuối sân đã lại bạc trắng cứt gà. Cứ thế quét đến gần trưa”(10).

Nếu trong huyền thoại, xứ sở kì lạ là vùng đất kì diệu, nhân vật lạc đến như một giấc mơ đẹp thì trong hai cuốn tiểu thuyết này, xứ sở các nhân vật lạc đến lại kì dị, lạ lùng như trong cơn ác mộng. Họ đến và không có ngày quay về như nhân vật huyền thoại. Sử dụng motif cổ, xây dựng nên thế giới siêu thực song cho thấy lối nhìn của các tác giả về đời sống con người hiện đại đầy bất trắc và phi lí.

2. Motif chạy trốn

Motif bị bắt và chạy trốn là một motif phổ biến trong truyện cổ. Trong truyện cổ, người chạy trốn thường được hỗ trợ bởi một sức mạnh nào đó còn trong tiểu thuyết của Kobo Abe và Nguyễn Danh Lam con người cô đơn tuyệt đối.

Motif chạy trốn thể hiện khao khát thoát khỏi đời sống vô nghĩa, khao khát tự do mãnh liệt. Các cuộc trốn chạy của nhân vật cũng làm dấy lên nỗi đau xót về hình ảnh con người cô độc, giãy giụa, quay cuồng trước cạm bẫy đồng loại đã giăng ra. Con người là một tồn tại phi lí, số phận thuộc về quy tắc không rõ ràng của “họ”, những người không biết ở đâu, chưa bao giờ ra mặt nhưng có mặt ở mọi nơi, biết tất cả mọi chuyện (Giữa vòng vây trần gian), của đám đông dân làng với luật lệ riêng mà luật pháp không thể chạm tới (Người đàn bà trong cồn cát). “Họ” mang thứ quyền lực vô hình của Klamm trong Lâu đài của Kafka. “Họ” là ẩn dụ về những định chế xã hội ràng buộc con người, ẩn dụ về những bất trắc lơ lửng đe dọa tồn tại. “Con người là một sự kiện trần trụi, mù lòa. Nó ở đó, như vậy đó, chả có nghĩa lí gì cả”(11). Vì “trần trụi, mù lòa” nên nó “run rẩy và sợ hãi” (tên một cuốn sách của Heidegger). Vây quanh con người là những mối đe dọa có thực và cả vô hình đang nhòm ngó, đang dõi theo, truy đuổi và chực bủa lưới. Bởi vậy họ phải trốn chạy, phải đào thoát khỏi thế giới đó, có thể bằng cái chết như Thữc hoặc bằng trí tuệ, sự sáng tạo, niềm say mê như Niki Jumpei.

Trải qua bao cung bậc cảm xúc, từ ngạc nhiên, tò mò, tức giận đến khấp khởi hi vọng rồi cùng cực tuyệt vọng, Niki Jumpei không ngừng từ bỏ nỗ lực tìm kiếm lối thoát trong những cuộc trốn chạy bất thành. Hôm đầu tiên anh tìm cách trèo lên miệng hố nhưng cứ leo lên lại tuột xuống và bị hất rơi trở lại đáy hố; rồi xúc cát ở chân tường để cát ở phía trên trút xuống dần, làm cho bức tượng cát bớt dựng đứng; giả vờ ốm để được thả; trói người phụ nữ để bắt dân làng kéo mình lên; ngừng xúc cát; lấy vải tết một sợi dây trèo lên được nhưng lại rơi vào bẫy của dân làng, phải quên đi nỗi xấu hổ để cầu xin cứu giúp. Đến bước đường cùng con người trở nên tha hóa, tàn nhẫn giăng bẫy lẫn nhau. Vì không đủ người dọn cát khi mùa bão cát đang đến, dân làng trở thành những tay thợ săn lão luyện đánh bẫy những người lạc bước tới đây. Họ lừa anh xuống hố rồi rút thang, khi anh trói người đàn bà và bắt dân làng kéo anh lên để cứu người đàn bà ấy, dân làng giả vờ thỏa hiệp, kéo lên nửa chừng rồi buông sợi dây thừng để anh rơi tõm xuống hố cát với “cơn giận và nỗi nhục nhã sôi trào trong người”(12); anh không xúc cát, họ ngừng cung cấp nước uống; khi anh leo lên được hố cát, dân làng đuổi theo rồi lừa cho anh sa vào vùng cát lún. Hoặc kể cả anh, để thoát ra khỏi hố cát Niki Jumpei cũng rất phũ phàng, thậm chí để được đi dạo anh đã không ngần ngại cưỡng hiếp người phụ nữ, mua vui cho dân làng. Cuối cùng anh phải chấp nhận thực tại, ở lại nơi khốn cùng này, nhập vào đội ngũ những con dã tràng xe cát mà ban đầu anh thấy vô lí, kì cục đến bực tức. Ngay chính khi đó anh lại tìm thấy tự do với phát minh lấy nước từ cát. Hóa ra, sức mạnh để con người thoát khỏi thực tại phi lí, thoát khỏi nỗi cô độc chính là trí tuệ, lao động. Đời sống không còn là cõi lưu đày khi con người làm chủ tình thế, nói cách khác, không thể chạy trốn khỏi đời sống luôn đầy bất trắc và trói buộc mà chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa trong hoàn cảnh đó bằng sự say mê và sáng tạo.

Thữc trong Giữa vòng vây trần gian cũng điên cuồng trốn chạy đến suy kiệt tinh thần và thể xác giữa thế giới hư hư thực thực với nỗi sợ hãi choáng váng về những thế lực vô hình cho đến khi chết mất xác trong một đêm tối giữa rừng sâu. Nếu mối đe dọa trong Người đàn bà trong cồn cát là cụ thể, hữu hình thì trong tiểu thuyết của Nguyễn Danh Lam nhân vật trốn chạy kẻ thù vô hình với nỗi sợ hãi mơ hồ mà kinh hồn bạt vía. Thữc cô đơn chạy trốn con người trong cõi nhân gian hoang vắng. Thần kinh luôn căng lên nghe ngóng, rồi điếng người trong hoảng loạn, nhân vật trải qua những cơn tuyệt vọng liên miên không dứt. Thân tàn ma dại, Thữc “mất dần cảm giác đói khát. Mất dần cả ốm đau bệnh tật”, “chẳng còn khác mấy với cỏ cây, gạch đá vô tri”(13). Cảm giác sống không còn gì ngoài nỗi sợ hãi, thậm chí đến lúc nỗi sợ hãi cũng mất, cái chết tinh thần đến trước tiếp sau là cái chết thể xác là điều không tránh khỏi.

Đời sống bi thảm nhưng với khát vọng hiện tồn mạnh mẽ, con người vẫn bám vào đời sống ở ngay chính mảnh đất đọa đày ấy. Trong tiểu thuyết của Kobo Abe, sau bao khao khát và nỗ lực vượt thoát không thành, cơ hội đến khi người phụ nữ ở cùng anh có thai ngoài tử cung phải đưa đi cấp cứu, lưỡng lự giữa ra đi và ở lại, cuối cùng Jumpei chấp nhận ngụ cư ở chốn này. Nhân vật của Nguyễn Danh Lam cũng vậy, lạc bước đến đây, Thữc luẩn quẩn chạy trốn rồi muốn “ra trình diện”, muốn được xác nhận sự tồn tại, muốn làm những việc như dân làng ở đây, dù phi lí, để gây dựng sự sống ở chính nơi hoang vắng xa xôi này bằng đời sống vợ chồng với cô gái.

Cùng sử dụng motif chạy trốn, Kobo Abe và Nguyễn Danh Lam đều cho thấy quan niệm cuộc đời là hành trình trốn chạy không ngừng không thể thoát được, và khi thoát ra có nghĩa con người chạm đến cái chết. Trần gian là một “vòng vây” vừa đe dọa vừa quyến rũ, dù phi lí, dù bi thương con người cũng vẫn phải chấp nhận, thích ứng để có thể tồn tại.

3. Motif mê cung vòng tròn

Motif mê cung được sử dụng trong Người đàn bà trong cồn cát Giữa vòng vây trần gian để chuyển tải tính chất bấp bênh, hỗn độn, khó đoán định của kiếp người đầy bất trắc. Thế giới mê cung là thế giới mang bầu không khí của cơn ác mộng, mọi thứ đều bất ngờ, lấp lửng.

Mê cung trong hai cuốn tiểu thuyết này là kiểu mê cung vòng tròn, đưa nhân vật vào khung cảnh rối rắm không lối thoát. Trong Giữa vòng vây trần gian, trên đường chạy trốn Thữc đi nhờ một chiếc xe tải, khi xe sa xuống hố, gã tài xế sai Thữc đi lấy nước, từ đó anh ta lạc vào một mê cung. Mê cung Thữc lạc vào là mê cung hình tròn, mỗi lần quyết định rẽ (từ trên bờ xuống thuyền, từ thuyền lên bờ để vào ngôi làng…) anh ta cũng không biết con đường ấy dẫn tới đâu, cuối cùng Thữc mới kinh hoàng nhận ra rằng anh ta đang lạc vào mê cung. Con người bị quăng quật vào đó mà không thể lí giải, thậm chí không kịp lí giải cho biến cố này đã bị đẩy đến thảm kịch khác trong một vòng tròn phi lí, “kiến bò miệng chén” như cách so sánh của Hồ Anh Thái trong bài viết Sự đền bù cho một ý thức in đầu cuốn sách. Thữc luẩn quẩn thoát thân từ con sông, vào ngôi làng kì lạ, vào khe núi rồi từ khe núi chạy ra bến sông rồi từ sông quay trở lại làng, từ làng lại vào khe núi và kết thúc cơn ác mộng bằng cái chết trong núi khi bí ẩn về cô gái ít nhiều được hé lộ. Trong mê cung vòng tròn, tâm của mê cung sẽ là cái chết. Đời sống là cõi lưu đày, song đường về không có, dự định, mơ tưởng mịt mù nhưng Thữc không thể quen, không thể quên được, anh vẫn thắc mắc, hoài nghi, bởi vậy, kể cả chốn lưu đày này cũng không dành cho anh. Cũng có thể, qua những trải nghiệm sinh tồn, bao thống khổ và hoài nghi, Thữc đã thấu hiểu đời sống, một chốn khác xứng đáng hơn với người đã thoát khỏi cõi mê, thấu hiểu bản ngã như Thữc. Bởi vậy, cái chết đến với anh ta là một tất yếu.

Trong tác phẩm này, Nguyễn Danh Lam xây dựng mê cung vòng tròn vô hình, tạo nên bởi sự lựa chọn của nhân vật. Cõi nhân gian là mê cung và con người, bằng hành động và lựa chọn đã đặt mình vào mê cung đó. Trong Người đàn bà trong cồn cát, mê cung con đường và ngôi làng là mê cung hữu hình. Cõi nhân gian là cái bẫy có sẵn chỉ chờ con người lạc chân đến. Lạc vào mê cung cát, mọi cố gắng đánh dấu đều bị vô hiệu hóa. Nhất là khi Niki Jumpei leo được khỏi hố cát nơi có ngôi nhà của người phụ nữ, mọi tính toán tưởng chừng rất cẩn thận, thấu đáo của anh bị thất bại thảm hại bởi mê cung không lối thoát này. Lấy ánh đèn trong làng làm tiêu điểm, giữ ngôi làng luôn ở về phía bên phải nhưng càng đi ngôi làng lại ở về phía trái nhiều hơn và dù đã băng qua ba cồn cát cao ánh đèn đó lại chẳng có vẻ gì tiến lại gần hơn, “tựa hồ anh đang tiến theo hình vòng tròn ở cùng một chỗ vậy”(14). Mê cung không chỉ là những con đường, những đụn cát nối tiếp vô tận mà còn là những hố cát sâu thẳm, tượng trưng cho cuộc sống bị giam cầm, ngột ngạt, cô đơn của con người.

Cảm quan về đời sống phi lí, trói buộc là cơ sở để motif mê cung xuất hiện trong tác phẩm. Con đường khám phá bản ngã là con đường vượt qua mê cung do chính nhân vật tạo ra. Tự vây bọc lấy mình bằng nỗi cô đơn vĩnh cửu, dù vẫy vùng đến kiệt quệ họ vẫn không thể giữ cho mình không lạc lối trước những ngã rẽ bất ngờ, may rủi. Song mỗi ngã rẽ ấy lại chính là một cơ hội để nhân vật bộc lộ mình, tìm lại giá trị đời sống, giá trị bản ngã, để lại “vết xước” trên thực tại.

Như vậy, việc sử dụng các motif giữa hai cuốn tiểu thuyết của Kobo Abe và Nguyễn Danh Lam có nhiều điểm tương đồng, tuy nhiên cách xây dựng các motif vẫn có điểm khác biệt khá thú vị. Với Kobo Abe những motif được xây dựng một cách ảo tưởng song mang tính hiện thực. Tình thế giả tưởng nhưng mọi sinh hoạt, mọi chi tiết được miêu tả rất thực. Còn trong tác phẩm của nhà văn Việt Nam Nguyễn Danh Lam, các motif được tái tạo trên nền thế giới ảo tưởng mang tính tâm linh. Những nhân vật không rõ người hay ma, không rõ sống hay đã chết, cuộc tìm kiếm kì lạ của hai ông già trên thuyền, biểu tượng “con sông” (quan niệm chết là “sang sông”), cô gái đã chết mượn khuôn mặt cô gái Thữc định chung sống để hiện hồn… tạo cho tác phẩm màu sắc hư ảo đậm đặc. Kobo Abe và Nguyễn Danh Lam đều sử dụng bút pháp siêu thực trên nền tư tưởng mang dấu vết của chủ nghĩa hiện sinh trong cách đặt vấn đề về đời sống, đưa đến cho người đọc những trải nghiệm khó khăn song xứng đáng, để thức tỉnh, để tìm lại giá trị nhằm xác lập cuộc hiện sinh đích thực.

N.T.H
(SH318/08-15) 


--------------------
(1) Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa xuất bản,  Sài Gòn, 1969, tr. 349.
(2) (9) (10) (13) Nguyễn Danh Lam, Giữa vòng vây trần gian, Nxb. Hội Nhà văn, 2005, tr.16, 229, 82, 281.  
(3) (4) (5) (6) (7) (8) (12) (14) Kobo Abe, Người đàn bà trong cồn cát (Nguyễn Tuấn Khanh dịch), Nxb. Văn  học, 2010, tr. 204, 23, 24, 56, 90, 86, 125, 210.
(11) E. Mounier, Những chủ đề triết hiện sinh (Thụ Nhân dịch), Nxb. Nhị Nùng, 1970, tr.46.   




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.