Sự tích mới ở eo Hòa Duân

18:21 01/11/2009
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

Lễ cúng người mất trên cửa biển Hòa Duân - Ảnh: Nguyễn Khoa Quả

Thực ra, từ mấy trăm năm trước, tại eo Hòa Duân ( còn gọi là eo Bầu), đã hơn một lần xảy ra thảm họa, dải cát mong manh ven biển này bị nước lũ cuốn trôi ra biển! Cũng chưa hẳn " ngày xưa" sự kiện đó đã là thảm họa, vì chắc gì trên dải đất cát đó đã có ai lập nghiệp và biết đâu, nhờ trôi eo Hòa Duân, mức nước lũ hạ nhanh mà cả vùng dân cư rộng lớn phía trên đỡ bị thiệt hại?...

Cuộc xoay vần của tạo hóa cả trăm năm đã nối lại eo Hòa Duân và dần dà cuộc sống nơi đây nẩy nở cây cối mọc lên, con người lấn tới, nhà nối nhà đông vui. Eo Hòa Duân trở nên như vòng tay ấm áp của đất mẹ bao bọc những con thuyền ngư dân vùng Thuận An sau những ngày lênh đênh ngoài biển khơi, đây cũng là nơi tàu thuyền trú ẩn khi mưa bão và là cảng của Hải đội 2 bộ đội biên phòng Thừa Thiên Huế.

Vậy mà tất cả đã biến mất trong chớp mắt khi cơn đại hồng thủy lồng lên từ những cánh rừng đại ngàn nơi thượng nguồn sông Hương hung hãn tràn xuống. Trước đó, trong màn mưa xối xả, thấy nước lên cao, phía nhà dân nhoáng nhoàng ánh đèn pin và náo động tiếng kêu cứu, Chỉ huy Hải đội lệnh cho 2 tàu xuất kích cứu dân. Nước đã lút cột trên cầu tàu, không thể mở được dây neo nữa. thuyền trưởng Đào Xuân Thành thét to:

- Lấy dao chặt, mau! Cường sau lái, Tư trước mũi!

Con tàu lao ra giữa dòng thác lũ được chốc lát và khi một số người dân bơi về phía đám cây phi lau cạnh khu nhà Hải đội, " neo người" được vào những gốc cây thì phía làng Hòa Duân, những ngôi nhà xây bị nước cuốn nối nhau sụp đổ, tiếng nổ vang động át cả mưa gió. Cùng lúc đó, cả một núi nước đổ xuống cuốn phăng chiếc tàu 300 ngựa ra biển.

Trời tối, sóng nước mù mịt, những tấm kính chắn sóng vỡ tung tóe, năm anh em trên chiếc tàu BP 310202 không ai trông thấy ai, nhưng Điền và Tư vẫn nghe được lệnh của thuyền trưởng thả vội dây neo, hy vọng kìm hãm bớt đà cuốn trôi hung hãn của thủy quái. Nhưng mấy móc sắt bám vào cát và sợi ni lông, dù to bằng ngón chân cái làm sao trụ lại với cơn cuồng nộ của thiên nhiên. Con tàu không sao điều khiển được nữa, nước phủ kín, đôi lúc tưởng như bị hút xuống đáy biển. Năm anh em lần lượt rời tàu nói đúng hơn là từng người bị sóng đánh văng ra khỏi tàu, cũng không rõ ai trước ai sau.

Giữa dòng xoáy thác nước dữ tợn đang ào ạt tuôn ra đại dương, các chiến sĩ đều bị quăng quật, vày vò đến tơi tả. Thuyền trưởng Đào Xuân Thành bị sóng đánh bay mất phao cứu sinh, quần áo trên người không còn một mảnh¸chiếc đồng hồ Sen- kô trị giá một chỉ vàng nơi cổ tay " bay" mất lúc nào cũng không hay, may vớ được một tấm ván, dồn sức ôm chặt lấy cho tới lúc bị dạt vào bờ. Suốt mấy tiếng đồng hồ đánh vật với sóng nước, Thành kiệt sức, gắng bò lên khỏi mép nước, thân thể trần truồng cũng không biết ngượng nữa, chỉ thấy kinh hãi khi ánh mắt chợt bắt gặp một cây phi lau trắng nhợt cũng vừa bị dạt vào bờ, toàn bộ vỏ trên thân cho tận gốc rễ đã bị " bàn tay" thần sóng bóc sạch tinh! Thủy thủ Nguyễn Quang Phú cũng bị sóng đánh bay mất phao cứu sinh đeo sau lưng, may là lúc rời tàu ôm thêm được chiếc phao dự phòng trước ngực, khi dạt lên bờ còn chiếc quần đùi trên thân. Thiếu úy Vũ Xuân Cường, máy trưởng thì trôi xa mấy ki lô mét về phía bắc, tận xã Hải Tiến.

Ba chiến sĩ được bà con ngư dân tìm thấy, đưa về nhà sưởi ấm, cho mượn quần áo trở về đợn vị mới biết hai người đồng chí thân thiết như anh em một nhà là trung úy Phạm Văn Điền, thợ máy và binh nhất Lê Đình Tư, thủy thủ vẫn còn nằm đâu đó ngoài biển khơi. Chẳng để ý đến thân mình đầy những vết thương do va đập vào thành tàu, cũng chẳng nghĩ gì đến toàn bộ vật dụng, quần áo tư trang, ít tiền dành dụm cho đến những tấm ảnh kỷ niệm đã mất hết theo con tàu chìm, ba chiến sĩ cứ mãi dõi nhìn ra phía biển vẫn đang mịt mù mưa gió với chút hy vọng mong manh. Các chiến sĩ biên phòng và bà con vùng Thuận An cũng ngược xuôi tìm kiếm. Hơn chục người dân ở Hòa Duân cũng đã bị thác lũ cuốn trôi chưa trở về. Trong dòng người nhao nhác cuống quýt chạy đi tìm kiếm nạn nhân có một cô gái thân hình mảnh nhỏ, nước da trắng bợt đi trong mưa gió. Đôi chân run rẩy, người cũng rét run, cô chẳng còn sức chạy đâu xa, chỉ còn biết dựa vào gốc cây phi lau trước sở chỉ huy Hải đội ngóng ra phía cửa biển mới vừa bị xé toang. "Trời ơi! Trời làm chi ác độc rứa trời! Nếu như anh Điền không về, thì con biết nói thế nào với mẹ đây?... Mới mấy ngày trước, trong vườn phi lau này, anh Điền và cô lại một lần nữa đã hẹn ước cùng nhau...

Trưa, rồi chiều, vẫn chẳng thấy tăm hơi. Niềm hy vọng gặp lại Điền và Tư như những ngọn đèn cạn dầu ở Thuận An đêm đó. Cô gái trẻ trong căn nhà nhỏ dọc phố mới Thuận An không nén lòng được, đã bật khóc rưng rức. "Mẹ ơi! Con đã hẹn với anh ấy, giờ biết làm răng hở trời!..." Còn Thành, Cường và Phú, trong căn phòng le lói ngọn đèn hạt đỗ, trong tiếng sóng biển đang thừa cơ xé rộng eo Hòa Duân dội vào không ngưng nghỉ, ngồi tụm bên nhau nhắc những kỷ niệm còn tươi nguyên. Cường, người con trai quê Thanh Hóa, nhắc việc vừa hẹn với Điền sẽ cùng đi phép để về thăm quê anh ở Hà Nam, trước đó, Điền đã về thăm làng quê huyện Quảng Xương của Cường. Thành thì kể chuyện Điền vừa nhận thư ông bố nhắc lo chuyện vợ con, 31 tuổi rồi, chứ còn trẻ trung gì nữa! Tội quá, mấy năm trước, Điền đã yêu một cô gái ở quê, nhưng anh đi xa biền biệt, cô gái quê đã đi lấy chồng. Nay thì anh đã định làm rể Thuận An, chỉ chờ ngày về thưa chuyện cùng bố...

Nhắc lá thư của người bố lo chuyện vợ con cho Điền, Thành mới giật  thót người vì chợt nhớ đến căn phòng của vợ con anh ở khu Xã Tắc trong Thành Nội hẳn bị ngập rất sâu, không biết giữa đêm tối này biết kêu cứu với ai. Mãi đến mấy ngày sau, khi được đưa về bệnh xá điều trị vết thương, Thành mới biết mức nước chỉ cách gác xép nhà anh có gang tay và vợ anh mới biết chồng vừa từ cõi chết trở về.

Phạm Văn Điền và Lê Đình Tư thì mãi mãi không trở về nữa.

10 giờ sáng ngày 9 tháng 11, trước Eo Hòa Duân, cửa biển mới mênh mông nước bạc ở Thuận An vừa do cơn lũ lịch sử tạo nên, hàng trăm đồng bào, chiến sĩ biên phòng cùng các đồng chí lãnh đạo Tỉnh và các cơ quan Trung ương lặng lẽ cúi đầu tiễn biệt hai chiến sĩ đã nằm lại mãi mãi với biển Thuận An. Chợt có tiếng bật khóc, tiếng kêu gào thảm thiết của một phụ nữ: bà Võ Thị Kim Oanh, người mẹ của Lê Đình Tư. "Con ơi! Còn chi nữa đâu con ơi!..."

Không ai cầm được nước mắt. Cô gái Thuận An vừa mới hẹn ước với Điền thì phải dựa vào bạn mới khỏi ngã quỵ. Trước cầu tàu của Hải đội, hai chiếc quan tài phủ cờ đỏ đã hóa thành tro và những nắm tro đã được rải xuống biển theo nghi thức " thủy táng", nhưng tất cả chỉ là tượng trưng. Không có di hài xương cốt đã đành, mà chẳng còn một mảnh quần áo, một vật dụng nào vì tất cả đều để trên tàu và chiếc tàu 300 sức ngựa đã chìm trong nước bạc. Chỉ còn lại chút kỷ niệm. Bà Oanh sụt sùi kể: "Nó vừa tạt về nhà xin hột bí hột bầu cho đơn vị trồng... Giờ thì mất cả rồi!...

Những tấm gương ấy như là những " hạt giống" tốt rồi sẽ lưu truyền mãi, nêu cao đức hy sinh vì đồng bào, vì nghĩa lớn, tôn vinh nét đẹp tinh thần trước thác lũ thiên nhiên hung bạo và cả trước " thác lũ" của cuộc đua chen chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường đang tràn ngập khắp nơi.

Huế- Thuận An 9/ 11/ 1999
N.K.P
(130/12-1999)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.