Kỷ niệm 45 năm ngày thống nhất Đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020)
PHONG LÊ
Ảnh: Internet
30 năm đã qua, tính từ 30 tháng Tư năm 1975 đến 2005 là năm hai cuốn nhật ký của Nguyễn Văn Thạc(1) và Đặng Thùy Trâm ra đời(2), cùng trước đó là 30 năm trong chiến tranh (1945 - 1975), chúng ta đã có một nền văn học viết về chiến tranh của một đội ngũ người viết - dẫu chuyên hoặc không chuyên, đều có chung một tâm nguyện là viết sao cho vừa chân thực, vừa có đóng góp tích cực cho cuộc chiến đấu đòi hỏi tận cùng những nỗ lực và hy sinh của toàn dân tộc. Và với hai cuốn nhật ký này, chúng ta lại có dịp thử nghiệm lại tính chân thực của nền văn học ấy; một thử nghiệm cho thấy độ tin cậy cao nhất về những gì đã được viết; và cả độ tin cậy về sự đón nhận, sự bàn luận và đánh giá của các thế hệ đến sau khi chiến tranh đã lùi vào lịch sử.
Đây là hai cuốn nhật ký người viết chỉ viết cho riêng mình, và giá có một mong mỏi xa xôi nếu mình còn sống, hoặc nếu cuốn nhật ký còn lưu giữ được thì cũng chỉ là cho người thân của mình. Như vậy có nghĩa là nó đã được viết với sự trung thực tuyệt đối với bản thân, và tuyệt không bị chi phối bởi bất cứ áp lực nào khác - áp lực của sự in ra, sự phổ biến để có một lượng người đọc nào đấy ngoài bản thân mình. Cả hai, Thạc và Thùy - nhân vật chính trong hai cuốn nhật ký đương nhiên là không có chủ định làm văn; và trong khi viết, họ cũng không nghĩ là sẽ có một ai đó, ngoài người thân đọc mình. Đây là mấy dòng trong trang cuối nhật ký Nguyễn Văn Thạc: “Ngày mai, ngày kia… Phải để lại tất cả ở đằng sau. Tôi không thể để cho ai đọc những dòng suy nghĩ này. Trừ khi tôi không còn sống mà gìn giữ nữa”. Vậy đây là một tấm gương soi trung thành tuyệt đối của chỉ một người. Thế nhưng khi hai cuốn nhật ký đã trở thành cuốn sách cho công chúng, cho sự đọc của cả nước, thì những gì được ghi trong đó bỗng trở thành tấm gương trung thực cho cả một thời, của cả một thế hệ.
Với Mãi mãi tuổi 20 của Nguyễn Văn Thạc, đó là tấm gương soi tâm hồn của một thế hệ dấn thân, không ngại gian khổ, hy sinh. Một thế hệ tìm được sự thể hiện khát vọng và mơ ước của mình trong những vần thơ lửa cháy của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Trần ĐăngKhoa… Và tình yêu (lúc nào mà chẳng thế!) nó là sợi giây, là mạng lưới bền chặt gắn anh với hậu phương, qua đó, làm nổi lên màu sắc trữ tình và chất lãng mạn của một thời, không thể thiếu, như một điều cần thiết của cuộc sống để cho con người có thể đi vào chiến trường và đối mặt với cái chết.
Bấy giờ là những năm sau Mậu Thân 1968 và chiến trường Quảng Trị đang nóng rẫy trong một cuộc đối đầu quyết liệt giữa địch và ta. Cuốn nhật ký đã được gửi ra Hà Nội từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh); và chàng trai Nguyễn Văn Thạc đã không còn thời gian và hoàn cảnh để ghi tiếp, sau những dòng này: “Kẻ thù không cho tôi ở lại. Phải đi. Tôi sẽ gửi về cuốn nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn nhật ký thân yêu của đời lính.
Ừ, nếu như tôi không trở lại? Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.
(...)
Kính chào Hậu phương - Chào gia đình và người tôi yêu. Đêm nay tôi đi. Nhất định có ngày trở về Thủ đô yêu quý của lòng tôi”.
Ngày ghi và địa chỉ dòng cuối nhật ký là 3-6-1972 - Ngã Ba Đồng Lộc. Trước mặt anh tân binh Hà Nội lúc này là mùa hè đỏ lửa của Quảng Trị…
Khi Thạc viết trong nhật ký: “Liệu mình có thể làm được gì cho văn học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu, và đi theo con đường nào? Làm sao có được một bàn tay dẫn dắt của người đi trước?”; tôi rất tin là nền văn học Việt Nam chống Mỹ đã mất đi một cây bút kế tiếp hoặc ở bên cạnh Phạm Tiến Duật, Ca Lê Hiến, Bế Kiến Quốc, Hoàng Nhuận Cầm…
Và chắc chắn trong thế hệ những người vào chiến trường có không ít những người như Nguyễn Văn Thạc...
Với Nhật ký Đặng Thùy Trâm - đó là chân dung một con người có đủ tầm vóc một anh hùng trong lực hấp dẫn tuyệt vời của nó - ở lý tưởng sống, ở các quan hệ sống, và ở một thế giới tâm hồn tôi cho là chưa có một hình tượng nào trong văn học viết về chiến tranh của ta đạt được. Và cái đẹp ở chị, cái cao thượng ở chị, cái tuyệt vời ở chị là cái thực 100%, cho đến tận ngày chị hy sinh. Và sau khi chị hy sinh, sau khoảng lặng 30 năm, cho đến khi cuốn nhật ký được in ra, chị lại vẫn sống tiếp một cuộc sống thiêng liêng trong lòng bao nhiêu người sống. Nếu nói đến tính chân thực trong sự sống lan tỏa và vĩnh cửu của nó - đó là hình ảnh Đặng Thùy Trâm trong nhật ký. Nếu có một con người trong trọn vẹn của cái Đẹp vừa là trần gian, vừa như huyền thoại; vừa khát khao tìm đến người thân và đồng chí như một điểm tựa, vừa lại là điểm tựa vững chãi cho bao người; vừa kiên cường mạnh mẽ như một hiệp sĩ, lại vừa mềm mại, tinh tế như một nhành hoa, trong những cảm nhận về thơ, văn, nhạc, họa… thì đó là Đặng Thùy Trâm. Con người ấy, ở tuổi ngoài 25, với những gì chị để lại qua nhật ký, đã làm vinh quang cho Đảng khi chị nói đến cái nguyệnvọng luôn luôn bị cản trở mà không sớm được kết nạp - trong một lá thư gửi về gia đình: “Ai đâu có thể vì tiền tài, danh vọng mà ra đi, còn con, ngoài Đảng chắc không ai có thể làm con xa với gia đình!” Và cũng qua nhật ký của chị, ta hiểu Đảng có một sức hút thiêng liêng. Chị cũng làm vinh quang cho nhà trường xã hội chủ nghĩa, nơi đã cho chị một khát vọng cống hiến để vào chiến trường; và một tri thức cùng tay nghề để phụ trách một bệnh viện huyện, trong 3 năm - nơi phải chịu những khó khăn và hy sinh nhiều nhất, so với bất cứ ai, ở bất cứ vị thế hoặc vị trí nào nơi chiến trường. Chị cũng đã góp phần tôn vinh những câu thơ của Bác Hồ, của Tố Hữu và nhiều người viết khác vốn đã hòa được vào bầu khí quyển một thời của dân tộc. Chị cũng đã tôn vinh chính cái chất gọi là “tts” (tiểu tư sản) mà một thời rất dài bị kỳ thị; và chính chị, cũng như Nguyễn Văn Thạc, từng là nạn nhân, nó là những giây phút chị mở Đài để được gội trong các giai điệu nhạc cổ điển; được ngắm trăng trong yên ắng tuyệt đối của bệnh viện vừa sau một trận càn; được trở về với kỷ niệm hậu phương, trong đó có một tình yêu chị muốn quên đi nhưng không sao quên được; được mơ về Hà Nội - một thời tuổi trẻ... Và nhất là được tự do trong một nỗi cô đơn, và buồn - những nỗi buồn làm thanh sạch và tôn cao con người. Để từ đó ta hiểu vì sao mà những “nỗi buồn chiến tranh” đã trở thành một nhu cầu tự nhiên và cần thiết ở con người, trong và sau khi chiến tranh đã kết thúc, dẫu với bất cứ khoảng cách nào của thời gian.
Bởi, cớ sao lại không thể buồn? Đây là một đoạn nhật ký: “Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn. Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng… tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại nhiều ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có”.
Với Nhật ký Đặng Thùy Trâm buồn choán nhiều trang lắm. Ngay vào đầu nhật ký đã thấy buồn. Không phải vì gian khổ và hiểm nguy, trong đối mặt với nhiệm vụ rất nặng và với kẻ thù lúc nào cũng rình rập; với pháo bầy, rốc két, trực thăng… Không phải vì cái im vắng của núi rừng, và lầm lội của mưa lũ. Cũng không phải chỉ vì xa quê hương Hà Nội, xa người thân. Cũng không phải chỉ vì một mối tình sau 8 năm trắc trở. Mà còn là vì quan hệ giữa con người - những người tốt và không tốt, hoặc quá xấu; những ganh tỵ và ghen ghét, những hẹp hòi và đố kỵ đối với cách sống, cách nghĩ được gọi là… tiểu tư sản. Cũng có nghĩa là do một đời sống nội tâm quá phong phú và quá nhạy cảm ở Thùy. Cuộc sống nơi chiến trường ở Thùy cố nhiên có nhiều niềm vui trong kết quả công việc, trong tình thương yêu của đồng bào, đồng đội, nhưng niềm vui ít khi trọn vẹn. Vào Đảng, trong nhật ký 27-9-1968 là một ngày vui, nhưng “sao nhỏ quá so với ý nghĩa của ngày vui. Vì sao vậy hở Thùy? Phải chăng như hôm nào Thùy đã nói: như một đứa con khát sữa mẹ khóc đã mệt rồi, miếngsữa nuốt vào không còn nguyên hương vị thơm ngon và cái thú vị của nó”. Biết bao đồng đội đã dành cho Thùy những tình cảm thân thương nhất. Nhưng trong mọi mối quan hệ đó vẫn cứ để lại cho Thùy không ít dằn vặt, băn khoăn, bởi Thùy luôn luôn đòi hỏi ở nó rất cao, luôn luôn Thùy đặt nó trong một soi xét rất nhiều chiều, nơi một cuộc sống thử thách con người nghiệt ngã nhất.
Buồn gắn với nhớ thương; vì Thùy khao khát sống tận cùng với người; và cũng đòi hỏi người sống tận cùng với mình; nhưng đó là điều không dễ lúc nào cũng đáp ứng được - do hoàn cảnh. Buồn còn gắn với cô đơn. Những trang trải trên mặt giấy cho thấy con người này luôn phải chống chọi với bản thân, thầm lặng mà quyết liệt. Nhật ký 22-7-69: “Chiều mưa xa nhà. Buồn nhớ mênh mông dày nặng như màn mưa đang che phủ quanh chân trời (…) thực ra không phải vì mưa đang rơi, không phải vì nếp nhà tranh không đủ che mưa với cảnh nhà cô đơn hiu quạnh này làm mình cảm thấy buồn, mà từ mấy bữa nay về sống ở đồng bằng, mình thấy cô đơn kỳ lạ. Những buổi sáng mặt trời lên trên mặt biển, những buổi chiều hoàng hôn trên cánh đồng xa và những đêm trăng rực rỡ trên bờ cát trắng, tất cả đều là cảnh đẹp nhưng mà nào có thấy vui”.
Con người trong phận sự làm người, sao cho xứng đáng với chất người - đó là khao khát, là ao ước xuyên suốt nhật ký Đặng Thùy Trâm. Cho đến trang cuối, trước lúc hy sinh, ở Thùy vẫn là sự kết đọng một khao khát cháy lòng để vượt thoát cô đơn: “Không, mình không còn thơ dại nữa, mình đã lớn, đã dày dạn trong gian khổ, nhưng lúc này đây sao mình cảm thấy thèm khát đến vô cùng bàn tay chăm sóc của một người mẹ mà thực ra là một bàn tay của một người thân hay tệ hơn chỉ là một người quen cũng được. Hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay mình trong lúc cô đơn, truyền cho mình tình thương, sức mạnh để vượt qua những chặng đường gian khổ trước mắt”.
*
Ba mươi năm sau chiến tranh đủ cho mọi ký ức trở nên xa vời. Thế mà với hai cuốn nhật ký của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm xuất bản năm 2005 lại có một dịp cho ta trở lại một thời đạn bom, tận cùng hy sinh, tận cùng gian khổ, nhưng cũng tận cùng đằm thắm tình đời và tình người. Phải gồm cả hai phía đó mới đạt được vẻ chân thực của chính nó, mà thêm một lần nữa, Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm đã là chứng nhân, là phát ngôn có sức tin cậy cao nhất.
Và vẫn tình đời, tình người đang sống tiếp cuộc sống 30 năm sau của nó. Sống trong một lưu luyến không dứt, và bỗng cuộn trào vào tháng 5/2005, khi hai cuốn nhật ký lần lượt đến với bạn đọc, với mỗi cuốn trên dưới 400.000 bản được ấn hành. Đó là cơ hội cho sự huy động và hội tụ ký ức của biết bao lớp bạn bè, đồng đội thân quen; bao người thân trong gia đình; bao địa chỉ là đất ở hoặc đất ghé qua, trên hành trình Hà Nội vào chiến trường. Và của cả một thế hệ thanh niên ở tuổi 20 đang hào hứng tìm đọc hai cuốn nhật ký để tìm đến, hoặc củng cố lại niềm tin về sức mạnh của tuổi trẻ, trong một thử thách mới của đất nước, chẳng kém trong chiến tranh: thử thách của thời bình.
Cũng là một dịp cho thấy để có hiện thực hôm nay, dân tộc đã đi qua bao mất mát không có gì bù đắp được. Bởi cả hai, ngẫu nhiên mà có, để cho ta soi vào sự sống tuyệt đẹp ở hai con người. Nhưng còn biết bao người, hàng vạn, hàng triệu người khác đã ngã xuống mà không có gì để lại, cũng trong những tư thế không kém nhẹ nhàng như Thạc, không kém anh hùng như Thùy Trâm. Để trở thành vô danh - một vô danh vĩ đại! Cũng như Thạc và Thùy đã trở nên vô danh 30 năm. Còn họ là vô danh vĩnh viễn.
Luận đề này thật xót xa, nhưng không thể không nói đến: Chiến tranh đã cướp đi của dân tộc những con người ưu tú nhất. Như Nguyễn Văn Thạc. Như Đặng Thùy Trâm.
Cùng với hai cuốn nhật ký ta lại có một cơ hội suy tôn chức năng và giá trị của văn chương, qua đóng góp của hai tên tuổi mới, không “chuyên nghiệp”, chỉ ngẫu nhiên ghé qua, mà mở ra biết bao chân trời cho sự nhận thức cuộc sống trong chiều sâu thăm thẳm của nó, và cho sự rung động kết nối giữa con người với con người, không phải chỉ trong giới hạn một quốc gia mà là tất cả những người khác màu da, khác chủng tộc; không phải chỉ sau 30 năm trong khoảng lặng mà rồi sẽ tỏa sáng sự sống bất diệt của nó, cho lâu dài và vĩnh viễn.
Tháng Ba - 2020
P.L
(TCSH374/04-2020)
--------------
1.Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc; Nxb. Thanh niên; 2005.
2. Nhật ký Đặng Thùy Trâm; Nxb.Hội Nhà văn; 2005.
NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2019) và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2019)
PHẠM THUẬN THÀNH
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh xua 180 ngàn quân vào Nam, có ý vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn. Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Triều Văn hoảng sợ chạy vô Kim Long cấp báo với Hiền Vương (tức chúa Nguyễn Phúc Tần).
TÔN THẤT BÌNH
BÙI KIM CHI
Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ Ngọ Phạn Điếm. Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension) trong ngày là học sinh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế mà thôi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
KỶ NIỆM 20 NĂM CƠN LŨ LỊCH SỬ 1999
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
NGUYỄN DƯ
Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm!
Nghe đồn như vậy. Ít ra cũng được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước tiến sĩ vinh quy bái tổ.
PHI TÂN
Hồi trước, khi làng xã tôi còn đoàn đội tập thể hay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì đàn trâu ở làng cũng của hợp tác luôn. Trâu được các hộ xã viên nhận về nuôi để ăn chia công điểm. Nhà mô có nuôi trâu thì con cháu trong nhà phải nghỉ học sớm để chăn trâu hàng ngày.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Ngày thơ ấu tôi đã bao lần ngủ ngon giấc trong lời ầu ơ của mẹ:
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm Ngày mất của Người (02/09)
HỒ NGỌC DIỆP
Kỷ Niệm 72 Năm Ngày Thương Binh - Liệt Sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019)
PHẠM HỮU THU
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô (vì làng này ở gần cửa Đại An nên quen gọi Hải Phố mà ra thế) nay Hội An đã lên cấp là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Nguyễn Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Dáng thế của đồi Hà Khê như một con linh thú vừa tách khỏi đất mẹ, rời tổ uống mấy ngụm nước bên bờ dòng Linh Giang. Quay đầu hướng về quê mẹ, đất tổ Trường Sơn như một lời từ biệt, lòng rộn buồn vui. Một nhát gươm chí mạng của thuật sĩ Cao Biền, thân thú mang nặng vết thương vẫn còn hằn sâu ở chân đồi.
ELENA PUCILLO TRUONG
(Viết cho những người bạn cầm phấn)
Kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6
NGUYỄN XUÂN HẢI
ĐÔNG HÀ
33 năm đổi mới trong Văn học Thừa Thiên Huế
NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Một chiều cuối năm 2018, tôi nhận được tấm thiệp mời nhân dịp Lễ mừng tuổi chín mươi của nhà giáo Trần Thân Mỹ và kỷ niệm 65 năm ngày cưới của ông bà Trần Thân Mỹ và Dương Thị Kim Lan. Nếu tính từ mốc tôi được ông đặt bút ký vào hồ sơ chuyển ngành từ Quân đội về làm việc tại Phòng Văn hóa Thông tin (VHTT) thành phố Huế là tròn 35 năm, trong đó có 7 năm (1983 - 1990) tôi được làm việc trực tiếp với ông trước khi ông nghỉ hưu. Ông là vị thủ trưởng khả kính đầu tiên của tôi, là người đã giáo dục, đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.
VŨ SỰ
Ngày xưa, chuyện “chồng già vợ trẻ” cũng là chuyện thường tình. Xứ Huế đầu thế kỷ 20, cũng có những chuyện thường tình như thế. Nhưng trong những chuyện thường tình ấy, cũng có vài chuyện “không thường tình”, ngẫm lại cũng vui.