Sóng lành mùa Phật Đản

16:07 13/04/2011
TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.
Một bức tượng Phật đứng vững giữa đống đổ nát trong một khu vực bị sóng thần tàn phá gần bờ biển, ở Natori, quận Miyagi, Nhật Bản, ngày 14 tháng 3 năm 2011, sau trận sóng thần và động đất ngày 11 tháng 3. (Ảnh: Toru Yamanaka/AFP/Getty Images)
Những đàn kiến cỏ thầm lặng dắt díu nhau lên núi cao. Những loài dế đất, bọ cát tản mạn về đâu mà càng đêm càng vắng tiếng... Những loài vật càng nhẹ, ăn ít, không tham tàn với đồng loại càng vắng bóng nhiều hơn trong những ngày gần kề cơn đại họa.

Hiện tượng loài vật xôn xao, sợ hãi, lánh nạn khỏi vùng đất tai ương nhiều ngày trước khi cơn sóng thần ập đến đất Nhật, làm trên hai vạn người thiệt mạng, cũng được những người dân sống sót tại địa phương quan sát và ghi nhận.

Trong vũ trụ có muôn vàn hiện tượng chằng chịt và phát sóng liên hồi. Không có gì tình cờ mà cũng chẳng có gì tiền định vì đó là dòng chảy tự nhiên, tan hợp triền miên mang tính khách quan và cũng chẳng có cái “ngã” nào chủ xướng phát sinh hay ngự trị cả. Loài vật có căn cơ riêng biệt bắt được sớm hơn hay có độ cảm nhận tinh vi và bén nhạy hơn loài người về những làn sóng của dòng năng lượng vũ trụ đang trôi chảy mà con người không thể - hay chưa - bắt được. Con người phải nhờ những con mắt thần “thiên lý nhãn” của phương tiện khoa học, kỹ thuật mới theo kịp loài chim báo bão, biết trước sự vận hành của thời tiết; nhưng vẫn còn mịt mờ với bao nhiêu biến động thường xuyên trong lòng đất và ngoài vũ trụ. Ai biết trước được bão tố, cuồng lưu, sóng thần, động đất sẽ đến khi nào. Trước thiên nhiên, con người nhỏ bé vừa nông nổi tự hào về những tiến bộ của khoa học trong thế kỷ 20, bỗng chững lại trước trước những biến dịch không lường từ bên ngoài vũ trụ. Con người cầm vũ khí nguyên tử trong tay mà run sợ về sự mong manh của mình trước những cơn bão từ trường, những lối vận hành khốc liệt của các thiên thể, những sự va chạm của thiên hà mà trái đất này còn bé mọn và mau tan hơn cả một hạt bụi trần.

Những người ở riêng trong lĩnh vực tâm linh và khoa học càng ngày càng gần nhau hơn qua dòng tâm cảm và qua kiến thức, suy tư về một khái niệm truyền thống dường như bí ẩn nhưng càng ngày càng hiện ra rõ mặt. Đó là ngưồn năng lượng tự nhiên và thiêng liêng trong đời sống vũ trụ và trên hành tinh này. Nguồn năng lượng tuy không hình, không dáng, rỗng lặng nhưng lại bao la, bát ngát, bao trùm hết thảy. Nó phi thời gian, phi không gian, phi hình tướng nhưng ở đâu, nơi đâu và thời nào cũng có. Nó thu liễm và phát tiết ra thành những làn sóng vô hình. Khi những cơn sóng có cùng tần số thì bắt gặp nhau, giao thoa với nhau để tạo thành một loại năng lượng mới tạm thời hay dài lâu: Sóng lành kết tụ thành năng lượng lành đầy vui tươi, nhẹ nhàng, an lạc và giải thoát. Sóng dữ kết tụ thành năng lượng dữ đầy cuồng nộ, tàn phá và đổ vỡ tang thương. Mỗi sinh vật là một đối thể cô đơn nhưng thường tại và năng động để thu và phát năng lượng qua những tần số mang sóng lành hay dữ. Con người vừa cô đơn, vừa “độc tôn” vì ai ăn nấy no, ai dò nấy biết. Những thần thánh và những nhà tiên tri là những “trạm” thu và phát sóng có tần số diệu kỳ chứ không phải là nguyên nhân tạo sóng. Gần gũi với các bậc thiện lành chân chính, bất cứ trong lĩnh vực nào, con người cũng sẽ được lợi lạc thu nhiễm được định lực của những lượn sóng lành qua tâm, qua trí.

Đức Phật xuống đời mang cho đời một nguồn an lạc. Sóng lành mùa Phật Đản từ mấy nghìn năm trước không biết có khác chi mấy nghìn năm sau. Nhưng con người bỗng thấy gần nhau hơn và nhìn vào đất trời lộng gió sâu hơn qua hương sen trên hồ và tiếng chuông chùa trầm ngân rơi dần vào tịch lặng.

Mùa Phật Đản đầu tiên - mà thế hệ Chiến Tranh Việt Nam 4x & 5x chúng tôi được thấy - trên quê tôi đang về có sớm quá hay muộn màng thì chỉ có những mùa sen trên Bàu Lộ hay dưới những ao hồ mới biết. Đó là ngày 8 tháng Tư ta năm 1955, khi tôi 10 tuổi. Những xóm nghèo trên quê tôi đón hòa bình vui như chim ca nắng mới. Chút yên ổn vừa hồi sinh sau ngày hòa bình trở lại với hiệp định “Giơ neo” chia đôi đất nước năm 1954.

Trong ký ức của tuổi thơ, tôi chỉ còn nhớ cái nền xi măng đầy gạch ngói vụn còn sót lại của ngôi chùa Làng bị bom đạn tàn phá. Người ta làm một cái rạp bằng tranh tre và lợp lá cau. Cũng có “lễ đài” dựng lên. Rơm rạ cột thành bó vuông chồng lên nhau làm nền và bao quanh bằng những tấm cót đan bằng tre, nứa màu trắng đục. Lũ trẻ trong làng thích nhất là cái tượng “Phật mới sinh” to bằng hai người thường, vừa được những nhà... nghệ sĩ nông dân trong làng vẽ lên trên tấm cót có ba cây tre bắt chéo làm giá đỡ đằng sau. Tôi được nhìn tận mắt mấy chú trong làng dùng mực xạ màu đen, củ nghệ màu vàng, hột mồng tơi màu tím, bao nhang dầm trong nước màu đỏ và mực xanh bình dân học vụ để vẽ tượng Phật. Lần đầu, tôi được nhìn “ôn Phật” mới sinh, một tay giơ lên trời, một tay chỉ xuống đất, môi đỏ chót, miệng cười toe... vui chi lạ! Đã 56 năm rồi mà tôi vẫn chưa quên lời bình luận của mấy bác trưởng tộc trong làng về bức tượng Phật Đản Sinh đầu tiên trên quê tôi, rằng: “Mấy chú quen đi cày, mạnh tay vẽ ông Phật mới sinh mà mặt mũi già khằn như ông cụ già 5, 6 mươi tuổi!” Ấy thế mà không sao cả. Nghe đâu lễ đài làng Liễu Hạ chúng tôi vẫn được chấm hạng nhì trong toàn xã Hương Cần năm đó. “Kính lão ngoan đồng cầu đắc thọ” chăng?!

Sớm mồng 8 tháng Tư ta là ngày Phật Đản. Mỗi làng là một đơn vị rước Phật về tập trung trên đồng lúa mới gặt. Có một lễ đài chung cho cả 7 làng và 3 phe trong xã. Cả 10 đơn vị sẽ cử hành chung một lễ Phật Đản chính thức. Thuở đó, chưa có Gia Đình Phật Tử trong địa phương. Sắp nhỏ có cha mẹ sinh hoạt ở chùa thì được xếp vào hàng “thiếu nhi Phật tử”. Trong mùa Phật Đản đầu tiên sau ngày hòa bình trở lại năm ấy, dân làng chúng tôi vốn đã chịu nhiều tang thương và đau khổ của chiến tranh suốt mấy mươi năm, nên ai cũng muốn gần gũi một chỗ dựa tinh thần an lành và vô sự. Hình ảnh ông Phật trầm tư muôn thuở và lời kinh từ ái, thuận hòa của đạo Phật đến với dân làng như những giọt nước mát rưới trên vùng khát vọng khô héo đã bao năm qua. Bởi vậy, lễ rước Phật trong ngày lễ Phật Đản nầy không ai chủ xướng vận động kêu gọi nhưng lại trở thành một ngày lễ hội thân thiết với dân làng, những người sau cuộc chiến đang thiết tha tìm cầu nẻo thiện.

Đám rước mộc mạc và đơn sơ nhưng ai cũng nếm được chút hương vị đượm tình khó tả như mùi vị đồng chua nước mặn. Nắng mùa Xuân trên con đường Nhứt càng lên cao, đám rước càng dài ra. Tự phát. Những Thiếu nhi Phật tử chúng tôi được xếp hàng hai, mỗi đứa cầm một cây đèn ú, đi trước, ngay sau giá tượng “ôn Phật” có hai lọng che. Tiếp theo có kiệu hương án và hai giá trống chiêng; mỗi giá do hai người gánh. Đám thanh niên trong làng thay phiên nhau gánh từ chùa Làng cho đến địa điểm hành lễ chung, đi bộ chừng một giờ. Tất cả giàn giá là bộ đồ gánh đám ma của Làng được mượn tạm và trang trí, chế biến lại theo “kiểu Phật” với nhiều chữ vạn, hoa sen và những đường hoa văn cắt xén đơn sơ, thoáng nét vụng về nhưng đầy... hỷ xã. Chúng tôi đã được tập dượt tối hôm qua tới khuya. Đám bé quê lần đầu được người lớn công nhận, cho tham gia một vai trò lễ nghi trong một đám rước nên đứa nào đứa nấy đều sung sướng và hãnh diện như cậu ấm về làng. Bởi thế, đứa nào cũng mở hết khẩu độ bình sanh của tuổi hoa niên để vừa đi vừa hát vang trời bài “Vui Mừng Gặp...” theo điệu đăng đàn cung: “Vui mừng gặp ngày nay, mồng 8 tháng tư. Ngày khánh tiết, Phật Thích Ca ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ trong đời khổ, vận đức từ bi...”

Tiếng hát vang lừng của tuổi thơ hòa với tiếng chuông trống trầm hùng và lời niệm Phật của tuổi già tạo nên một đám rước rỡ ràng đầy kính ngưỡng là “dấu Phật” in bóng trên đường quê sau ngày hòa bình trở lại. Phật Đản, không phải chỉ có một ngày mà là một mùa kể từ khi đám sen trong hồ nhú lên và nứt ra từng lá mới cho đến những ngày các chùa lắng lòng trong ba tháng an cư kiết hạ của chư Tăng, Ni và trải dài cho đến tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân.

Rồi thời gian đi qua, ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4 theo Trung Quốc thay đổi. Bài “Vui mừng gặp ngày nay mồng 8 tháng Tư...” không còn hát nữa khi ngày Phật Đản đổi sang Rằm tháng Tư theo truyền thống chung của Phật giáo Thế giới chọn ngày trăng tròn tháng Năm làm ngày Phật Đản (Vesàkha, Vesak). Nói đúng hơn là Mùa Phật Đản vì thời điểm được chọn theo Phật giáo của mỗi nước không giống nhau, thống nhất trong cùng một ngày như ngày Chúa Giáng Sinh - Noel, Christmas... 25 tháng Chạp. Ngày 15 tháng 12 năm 1999, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã chọn một ngày Văn Hóa Phật Giáo gọi là “Ngày Tam Hợp Thiêng Liêng Phật Đản” (The Thrice-Sacred Day of Vesak). Đây là một thời điểm biểu tượng bao gồm cả ngày đản sinh, ngày thành đạo và ngày nhập diệt của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong một thập niên qua, Phật giáo thế giới đã có ngày lễ hội Tam Hợp Phật Đản hàng năm chung cho Phật giáo toàn thế giới, hay Phật giáo của nhiều nước trong từng vùng địa lý thích ứng. Mùa Phật Đản 2600, tức là 2011 theo lịch Công nguyên, Vesak nhằm vào ngày 17 tháng Năm. Lễ hội Phật Đản Vesak quốc tế năm nay sẽ được tổ chức tại thủ đô Bangkok của Thái Lan từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 5. Tuy nhiên Phật giáo của mỗi nước như Tích Lan, Miến Điện, Trung Hoa, Đài Loan, Nhật, Lào, Cam Bốt, Mã Lai, Việt Nam, Singapore, Úc... sẽ tổ chứa Vesak riêng. Tại các nước Âu, Mỹ thì Vesak được tổ chức theo từng vùng. Như ở miền Bắc California, lễ hội Vesak 2011 sẽ được tổ chức tại chùa Kim Quang, thành phố Sacramento, trong hai ngày 28 và 29 tháng 5 với sự tham dự của các phái đoàn Phật giáo thuộc nhiều nước đang sinh hoạt trong vùng.

Dẫu cho đứng ở vùng đất hay thời điểm nào thì sự kết hợp giữa đời sống thể lý và tâm linh vẫn là yếu tính của con người. Đạo Phật không đem Đạo từ ngoài để gieo vào đời sống tâm linh của con người. Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình.

Có những tâm hồn như “hóa Phật” khi tiếp cận với những năng lượng an lành trong mùa Phật Đản. Người Việt chỉ mới đạt tới phần thẩm mỹ của tâm hồn khi thu nhiếp sóng lành mùa Phật Đản. Nếp cũ tâm linh và văn hóa được gọi là “đạo Thờ Cúng Ông Bà” của người Việt mới chỉ ở mức độ là phần cảm tính. Khái niệm tôn giáo dân gian của người Việt chưa rõ ràng và lan tỏa trong đời sống văn hóa xã hội như tôn giáo dân gian Thần Đạo (Shinto) của người Nhật Bản. Thần Đạo không có kinh điển nhưng có tới 800 huyền thoại và chuyện thần thoại để làm căn bản cho thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc họ. Trong khi nếp tâm linh dân gian truyền thống của người Việt chúng ta vẫn còn mờ nhạt như những viễn mơ đầy sương khói.

Khác với hàng Tăng lữ Việt Nam xuất gia là xuất thế, các thiền sư Nhật Bản đồng thời cũng là những đạo sĩ Thần Đạo nhập thế. Từ thế kỷ thứ 6, đạo Phật đã hòa quyện với Thần Đạo để hình thành một dân tộc tính vừa mạnh mẽ, vừa nhu hòa giúp con người vươn lên trong tâm bình và trí lạc. Trong thiên tai động đất và sóng thần kinh hoàng kéo theo hệ lụy vỡ lò nguyên tử xảy đến cho dân Nhật trong tháng 3 - 2011 vừa qua đã làm cho toàn thế giới sững sờ và kinh ngạc trước phản ứng đầy hy sinh, chịu đựng quá kham nhẫn và chánh định của một dân tộc anh hùng. Nhật có thể không bằng các nước Âu Mỹ hàng đầu về khoa học kỹ thuật. Nhưng trình độ dân trí, khí phách kiên cường và lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu thiên nhiên và con người của dân tộc Nhật biểu hiện trong cảnh tai ương nạn khổ của đất nước họ vừa qua, rõ ràng là chưa có nước nào sánh kịp trong một hoàn cảnh tương tự. Cộng đồng thế giới ngưỡng mộ phong cách trầm tĩnh tự điều phục, sự dấn thân trong tinh thần kỷ luật cao độ, lòng hy sinh âm thầm không tên tuổi, tình tự dân tộc dâng trào không băng cờ khẩu hiệu của người Nhật.

Một câu hỏi nổi lên tự nhiên là những yếu tố tinh thần và văn hóa nào đã un đúc nên một dân tộc tính cao đẹp như thế. Có nhiều cách nhìn nhưng tựu trung có 4 hướng chính: Đó là từ phía truyền thông đại chúng, phía doanh nhân và khoa học kỹ thuật, phía chính trị cầm quyền và phía xã hội tôn giáo. Những yếu tố hình thành và chi tiết tạo tác tương ưng cái “tinh thần Nhật Bản” ấy tuy khác nhau nhiều về cách thế, nhưng câu trả lời xương sống mà hầu như mọi phía đều đồng ý là: Dân tộc Nhật Bản từ thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên đã sống và chiến đấu bằng tinh thần Thần Đạo; nhưng cung cách xử thế tiếp vật trầm tĩnh, kham nhẫn và ý chí chịu đựng để sáng suốt vươn lên trong mọi tình huống cay nghiệt nhất đã được un đúc bằng tinh thần Phật Giáo. Dân Nhật có 130 triệu nhưng hơn 100 triệu là tín đồ Thần Đạo Phật Đạo. Sự tĩnh tại của đạo Phật là một sức mạnh tinh thần nội tại. Tôn giáo không khuất bóng trong những suy niệm siêu hình mà thể hiện thành một “tinh thần Nhật Bản” có bản sắc dân tộc đầy dũng cảm, hy sinh, tự chế và tự trọng làm cho thế giới nghiêng mình cảm phục.

Suốt 15 thế kỷ sóng lành của đạo Phật đã thường xuyên có mặt bên cạnh những ngọn sóng thần đầy cuồng nộ - cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - trong dòng lịch sử nhiều thăng trầm của nước Nhật.

Nhà văn Trần Mộng Tú đã có một đoạn viết rất đẹp về hình ảnh và tinh thần Võ sĩ Đạo - Samurai - của Nhật: “Hầu hết những nguyên tắc của Võ Sĩ Đạo đều dựa trên căn bản triết lý của đạo Phật và Thần đạo. Thần đạo thiên về khía cạnh tích cực, hướng dẫn con người thăng hoa vật chất, phát huy tối đa sự sáng tạo, xây dựng một xã hội vượt bực bằng tất cả khả năng của mỗi cá nhân. Trong khi đó Phật giáo giúp cho con người nhìn thấy cái phù du của đời sống, cái hư ảo của mất còn. Hai tôn giáo này đã nằm trong máu người dân Nhật. Nên với những phẩm hạnh đó, các Samurai hành xử qua sự thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, đặc biệt tinh thần an nhiên của Phật Giáo Thiền Tông, đơn giản và tĩnh lặng. Họ trở thành những anh hùng đơn giản và bình tĩnh trước mọi tình huống. Samurai tự coi mình mang vẻ đẹp thanh cao và lý tưởng của hoa Anh Đào. Khi nắng xuân ấm áp những nụ hoa Anh Đào đang khép, nở bung ra, nó khoe tất cả những nét đẹp tuyệt vời của từng cánh hoa. Nhưng khi một trận gió, một cơn mưa xuân đến thổi tung cánh hoa lìa cành, nó cũng dâng hiến một trận mưa hoa ngoạn mục trong không gian, để mọi người đứng ngẩn ngơ chiêm ngắm. Sống và chết, hoa Anh Đào cùng khoe vẻ đẹp dù mong manh ngắn ngủi.”

Từ một vùng quê Việt Nam vô danh sau chiến tranh như làng tôi cho đến điểm nóng trong mắt nhìn thế giới như nước Nhật hôm nay, đạo Phật đã đến và ở lại không hồ nghi, phân biệt. Tánh Phật giữa đời thường có khi nhỏ bé và đơn sơ như một hạt cát: Lành. Có khi cao rộng, thâm sâu mà vô tâm như suối nguồn hạnh phúc: Xả!

Năm nay, mùa Phật Đản lại về trong khung cảnh toàn thế giới đang trải qua nhiều biến động chẳng lành. Thiên tai xẩy ra liên miên ở nhiều nơi gieo nhiều tang thương và bể khổ. Nhiệt độ trái đất đang nóng dần kéo theo khả năng hủy diệt môi trường sống. Ngôn ngữ súng đạn thay cho ái ngữ cảm thông thương thảo hòa bình trong quan hệ quốc tế. Chỉ riêng tại xứ Hoa Kỳ nầy, đầu năm ở miền Đông có những đàn chim hàng chục nghìn con đang bay rợp trời bỗng rơi xuống chết đầy đường. Cùng thời gian động đất xảy ra ở Nhật, ở bờ biển phía Tây Nam California, hàng triệu con cá chết đột ngột, xác đóng dày bãi biển tới 30cm mà không hiểu nguyên nhân vì sao. Hiện tại, tin từ Florida cho biết trong vùng vịnh Mexico cực Đông Nam của Mỹ, đang có hàng chục nghìn con cá voi khổng lồ kết thành một vòng tròn chợt biến, chợt hiện chẳng biết vì lí do gì. Người ta lo ngại hiện tượng “chim sa cá... chết” là điềm báo trước chuyện chẳng lành. Cho dẫu đó là những hiện tượng thiên nhiên do sự biến động môi trường sinh thái đang âm ỉ hoặc bừng bừng diễn ra trên địa cầu hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi, nhưng tại sao con người càng văn minh tiến bộ, càng no cơm ấm áo - cứ ngỡ như đang đứng lấp ló ở cửa Thiên Đường, Niết Bàn - lại càng canh cánh nỗi lo bên mình đến thế.

Điều nghịch lý đầy mỉa mai cho khát vọng hòa bình an lạc của con người là phương tiện vật lý càng giàu có thì kết quả tinh thần càng nghèo khó. Khoa học kỹ thuật và giao thông vận tải phát triển, những tưởng càng ngày con người càng có điều kiện đến gần nhau hơn. Nhưng thực tế thì lại càng tạo ra mầm đối đầu và xung đột nhiều hơn là cảm thông và hóa giải. Môi trường truyền thông đại chúng như báo chí, truyền hình, truyền thanh, mạng lưới vi tính, điện thư, điện thoại cầm tay... ngỡ như giúp con người sống chan hòa, chia sẻ với nhau giữa lòng cuộc đời thì lại càng làm cho những đối tượng hiểu lầm, cô đơn và xa cách nhau nhanh chóng hơn.

Phải chăng vì “một dòng nước trong năm bảy dòng nước đục” đang xâm lấn địa cầu nên năng lượng lành càng ngày càng mất. Sóng đời thô nhám quá nên khó bắt được sóng lành co rút lại, ẩn sâu kín trong đáy lòng người khó ngoi lên được.

Đức Phật ra đời, đem đến cho trần gian một pháp môn vi diệu nhất: Buông xả. Khi tất cả đều trống không và rỗng lặng thì ôm đồm và khư khư nắm giữ gì đây?! Đạo Phật kế thừa đem đến cho người phương thuốc thần diệu nhất: Thêm vui, bớt khổ. Cho đến một ngày chỉ có toàn niềm vui là ngày đắc đạo!

Ngày 31 tháng 3 năm 2011, một người Nhật tên là Masaru Emoto, gởi điện thư cho nhiều người trên thế giới. Anh là một nhà khoa học và cũng là một nghệ sĩ, tự nhận mình là một Người Mang Thông Tin của Nước (Messenger of Water). Trước hết anh chứng minh rằng, công thức về năng lượng lừng danh của nhà bác học Albert Einstein, E=MC², thật sự có nghĩa rằng: Năng lượng = Số người nhân với bình phương của lương tâm. (Energy = Men × Conscience²) Bởi thế theo sự hiểu biết và trải nghiệm của anh trong suốt 20 năm nghiên cứu và làm việc với môi trường Nước thì nước thiên nhiên đã trở thành trong mát hơn khi nó nhận những làn sóng rung động vi tế xuất phát từ tấm lòng lành cầu nguyện của con người, bất luận dẫu cho sóng lành cầu nguyện đó ở cách xa bao nhiêu. Trong hoàn cảnh bi thảm của lò nguyên tử Fukushima bị rò rỉ sau trận động đất tại Nhật, phóng xạ nguyên tử mang khả năng giết người và mọi loài sinh thể đã tìm thấy lan vào trong vùng nước xung quanh. Theo Emoto, sự khôn ngoan của trí tuệ con người chưa đủ cứu nguy khi sóng nước thiên nhiên đã và đang đến hồi cuồng nộ, nhất là dòng nước bị con người đưa vào lò phản ứng nguyên tử để làm dịu lại nguy cơ nóng chảy các thiết bị kích hoạt phản ứng. Cần phải có sóng lành của tâm hồn mới mong góp phần cứu khổ. Anh tha thiết khẩn cầu nhân loại trên toàn thế giới đúng 12:00 giờ trưa hôm nay tại múi giờ của mình, xin lắng lòng cầu nguyện để chuyển tải năng lượng lành tới cứu nguy cho vùng đất trời đang bị nạn. Lời cầu nguyện: “ Xin hướng về Nước của Lò Nguyên Tử Fukushima, chúng tôi xin tạ lỗi đã làm cho Nước phải chịu đựng khổ đau. Xin tha lỗi cho chúng tôi. Xin cảm tạ Nước với lòng yêu thương.” (The Water of Fukushima Nuclear Plant, we are sorry to make you suffer. Please forgive us. We thank you and we love you.) Một lời nguyện đơn giản thế thôi, nhưng nếu được cả hàng tỷ người cùng phát sóng từ trái tim mình, năng lượng giao thoa sẽ có hùng lực không thể nghĩ bàn, xoay chuyển được những chuyển động của vũ trụ.

Không phải chỉ có ngày hôm nay mà ước mong mùa Phật Đản năm nay và mãi mãi rằng, chỉ có sóng lành trôi chảy trong tâm thức của nhân gian để cho bụi đời lắng xuống: Một con nước đục, một chục dòng trong. Chỉ có sự trong ngần mới thấy được nhau để cảm thông và hóa giải.

Sacramento, mùa Phật Đản 2600; Vesak 2011
T.K.Đ








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.