BỬU Ý
Suốt trên ba mươi năm hiện diện, Tạp chí Sông Hương hiển nhiên xác lập được sự trưởng thành của mình bên cạnh những tập san, tạp chí uy tín nhất của cả nước.
Sông Hương có tư cách đại diện vì nó được đông đảo độc giả tham chiếu một cách xứng đáng và tiện lợi. Sông Hương có giá trị xã hội, dù không ký kết bản hợp đồng nào nhưng vẫn phải tự xem mình có nợ tinh thần với xã hội. Và, hơn thế nữa, Sông Hương đảm đương một thiên chức văn hóa và tư tưởng kết tinh từ một vùng đất dày dặn truyền thống và lịch sử, kết tinh từ những diễn đàn tiền nhiệm.
Nói đến những diễn đàn trước đây tại Huế, tôi nhớ lại một địa chỉ văn hóa trước 1945: trụ sở Quảng Tri ở đường Hàng Bè (đường Huỳnh Thúc Kháng hiện nay), nơi thường xuyên tổ chức những buổi trình diễn nghệ thuật sân khấu và những buổi diễn thuyết, trao đổi học thuật giữa ba miền đất nước. Tôi nghĩ đến tập san Đô Thành Hiếu Cổ ra đời ở Huế từ 1914, tuy viết bằng tiếng Pháp, nhưng ghi chép, biên soạn, làm bạn với Huế suốt ba chục năm trường. Và, giữa thế kỷ hai mươi, sau khi Đại học Huế thành lập năm 1957, nhu cầu nghiên cứu, giao tiếp phát triển mạnh, khai sinh tập san Đại Học được cả miền Nam chào đón thịnh tình.
Trở lại với Tạp chí Sông Hương trong hiện tình.
Trước hết ta hãy cùng nhau nhận thấy rằng trong thời gian qua, Sông Hương không phải luôn luôn tiến bước trên những lối đi bằng phẳng. Tuy rằng, ở bề mặt, Sông Hương chẳng bị phiền trách gì nặng nề, chẳng bị dạy dỗ gì đến độ phải rụt rè, chẳng tạo xì- căng-đan nào gây tai hại cho ai, mà lại rốt cuộc mở ra được nhiều cánh cửa giải tỏa một khủng hoảng nào đó cho sáng tác, cho tư duy, mở rộng vòng tay và trái tim đối với nhiều mảng độc giả, cộng tác viên và tác giả trước nay bị xã hội đối xử không thuận lợi với nhiều thiên kiến tưởng chừng khó lòng phá vỡ. Ở đây, tôi muốn nói đến, thứ nhất là những tác giả cùng những sự kiện chung quanh một số tạp chí miền Nam trước đây như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Bách Khoa v.v, và thứ hai là những tác giả hiện đang ở nước ngoài. Cách xử trí của Sông Hương, trong trường hợp này, tỏ ra rất công minh nhưng vẫn gánh lãnh một phần run rủi, rủi ro.
Trên con đường đang mở rộng trước mắt, với những ưu điểm năng động, xông pha, phát hiện tài năng, trăn trở với những tài năng bị oan uổng, bản thân tôi muốn Sông Hương phát huy thêm cái tâm cơ của mình cho đến tận cùng cái biên giới giữa làm được và không làm được để quan niệm rộng thêm rằng Sông Hương không chỉ là một cơ quan ngôn luận, không chỉ là một cơ quan văn hóa, mà nên hóa thân thành một trung tâm văn hóa có khả năng vừa kết hợp vừa lan tỏa những lực lượng tri thức của một không gian càng ngày càng rộng mãi thêm.
Cũng giống như trong ngành du lịch, một thắng cảnh hoặc di tích thu hút được khách tham quan không phải chỉ nhờ vào bản thân thắng cảnh hoặc di tích mà thôi, còn nhờ vào cự ly của di tích, tức là phải nhờ vào một không gian bao quanh di tích cần được chăm sóc luôn thể; thì cũng vậy, Tạp chí Sông Hương ở đây, cần quan tâm hơn nữa đến việc chăm sóc cự ly cho mình. Cái cự ly văn hóa này, tôi xin tạm gọi đó là “vùng ảnh hưởng”. Và muốn gây ảnh hưởng thì phải biết tiếp thu, biết kết hợp nghe, nói, hỏi, đáp. Nói đến vùng ảnh hưởng có thể tạo dựng được của Sông Hương, khởi đầu tôi nghĩ ngay đến trục lộ đẹp nhất của thành phố Huế: đó là đại lộ Lê Lợi. Cùng sống chung với nhau trên đại lộ Lê Lợi là Hội Văn nghệ, là Đại học, là bảo tàng văn hóa và nghệ thuật, là trung tâm trưng bày, là hai trường trung học lớn nhất của thành phố, bao nhiêu lực lượng kết hợp tạo nên tiềm năng sung sức của một thành phố, một kho tài năng tinh hoa cần được phát hiện. Cứ tưởng tượng ngày này qua ngày khác, những thanh niên này qua qua lại lại trước Hội Văn nghệ, dầm mình trong vùng ảnh hưởng của văn học nghệ thuật là cũng đủ để cho Tạp chí Sông Hương mở rộng thêm hoạt động của mình bằng cách, chẳng hạn, thiết kế những buổi nói chuyện, đọc sách, điểm sách tại Tòa soạn hoặc trên vô tuyến truyền hình, tổ chức những bàn tròn trao đổi, thảo luận, góp ý, thỉnh thoảng có thể điểm thêm những buổi bình thơ, bình hội họa, bình nhiếp ảnh, những buổi hồi cố văn chương tiền chiến hoặc dặm thêm những tên tuổi thơ văn từ các chân trời xa lạ. Đó đồng thời là hoạt động bồi dưỡng cho tuổi trẻ và luôn cả cho chính mình.
Từ buổi đầu cho đến nay, hình như Sông Hương được thừa hưởng nhiều thiện cảm đến từ độc giả trong nước cũng như ngoài nước. Sở dĩ được như vậy, thiết tưởng không nhờ hoàn toàn sự đóng góp của nó vào văn học nghệ thuật nói chung, mà một phần nào đó nhờ nó sinh thành trên một mảnh đất ít nhiều huyền thoại là cái xứ Huế này. Bao nhiêu nét tính, thuộc tính trước nay gắn liền với Huế, kể từ nét duyên dáng, sang trọng, quý phái, thông minh, thâm trầm, sâu sắc, tài hoa… cho đến những khía cạnh cổ kính, văn hóa, bản sắc, trí thức, tâm linh… thay phiên nhau vờn lượn trước mắt, khi thì bạ vào câu ca dao, khi thì mốc meo ở một họa tiết trang trí, khi thì nhất thời quá cảnh vào một nhịp sống lập dị…, tất cả ngần ấy thứ như vầy cuộc với nhau trong một không gian chòng chành giữa thực với hư và sẽ mượn những nẻo thông ngoằn ngoèo đi vào tưởng tượng và tình cảm hơn là đi vào phân tích và lý trí.
Đất nước nào cũng trọng vọng anh hùng, núp bóng huyền thoại, như thể chờ được chở che, mở lòng học tập noi gương, hay ít nữa là được thơm lây.
Vùng đất cằn cỗi là xứ Huế này, dù trải qua muôn vàn gian khó, vẫn là vùng đất được “Bà Trời” chỉ điểm, linh ứng với sấm truyền “vạn đại dung thân”.
Ngày xưa sĩ phu Bắc Hà rủ nhau vào Huế đông đảo, chẳng phải để làm gì cụ thể, mà trước mắt là thăm thú Vỹ Dạ theo lời mời gián tiếp của Hàn Mạc Tử, hay là ghé qua Bến Ngự tìm lại bước chân của ông già Bến Ngự, hay là dư âm của một mối duyên bẽ bàng, nếu không phải là đón đợi một câu hò ở bến Văn Lâu… Những bước chân trước nay vẫn giong ruỗi vào kinh mặc dù văng vẳng bên tai lời dặn dò của sư Viên Thành:
Vầng trăng núi Ngự nước sông Hương
Chưa đi tới đó hận muôn đường
Khi đã tới rồi không gì lạ
Vầng trăng núi Ngự nước sông Hương
Huế chẳng là gì, Huế không có gì cả, nhưng nó vẫn có một cái gì đó ở bên trong, nó ấp ủ cái duyên âm thầm, nó chất chứa vài sắc nét trường tồn, nó có một cái gì đó chỉ có thể thổ lộ với người tri kỷ, nó là loại thành phố “ở lâu mới biết…”.
Ta có thể liên tưởng tới trầm hương nức nở từ cây dó: “Trong đau thương, dó biến thành trầm”. Khi nào có vết thương trên thân, cây dó bầu đến lúc ấy vặn mình ứa ra nhựa trầm. Trầm là tích tụ khí thiêng của trời đất. Bom đạn, thuốc khai quang đã làm trầm khô héo, còn lại được cây nào thì cái nghèo đói đã sẵn chực tiếp tay đốn ngã kỳ hết, chỉ lưu lại giữa trời đất những mẩu huyền thoại.
Và cũng là huyền thoại là cái màu “tím Huế”! Tím nào chẳng là tím, hà cớ gì đèo thêm tím Huế! Nó nguyên lai là màu áo Chăm, rồi hóa thân thành màu chủ đạo trong hệ ngũ sắc dân gian Huế, trước khi cư ngụ vào tà áo nữ sinh, nó cũng là màu thâm sơn hay màu nước sâu sông Hương lúc mặt trời sắp lặn. Màu sắc rõ là huyền thoại!
Riêng phần tôi, để vỗ về một cô em họ ở nước ngoài quay quắt nhớ Huế, tôi viết trong thư: “Tôi hiện đang ở Huế và tôi nhớ Huế vô cùng”. Quả tình chúng ta đang bì bõm trong lòng biển vong thân!
Huyền thoại, suy cho cùng, rất cần thiết cho con người. Nó không đơn thuần là một cái gì viễn vông. Nó phát sinh từ thực tế, nhưng từ thực tế nó thoát thân nhanh và bay cao. Có điều huyền thoại của người này không nhất thiết là huyền thoại của người kia vì khác nhau ở điểm xuất phát và cách vun trồng. Dù sao nó cũng là một cái mốc cho kích thước vươn cao của con người. Điều hi hữu là có khi huyền thoại trở thành thực tế, giống như nàng tiên cá trong truyện cổ tích đến hồi mơ tưởng trở thành con người phàm trần, không còn biết đâu là thực tế, không còn biết đâu là huyền thoại, hai thứ đã trở thành nhất thể.
B.Y
(TCSH340/06-2017)
SONG CẦM
Bút ký
Với tôi, nước Nhật không những không xa lạ mà còn rất gần gũi. Tuy vậy, tám năm ở Nhật trước đây chưa phải là dài lắm để tôi đủ thời gian và cơ hội trải nghiệm tất cả.
PHÙNG SƠN
Truyện ký
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Chúng tôi về Điền Lộc vào một ngày tháng năm, nắng hực trảng cát hun hút trải dài mùa biển.
NGUYỄN PHƯƠNG ANH
LGT: Chu kỳ biến đổi khí hậu khiến thời tiết Huế mấy năm gần đây thay đổi rõ rệt. Huế ít lụt hẳn đi, thậm chí lụt cũng thay đổi chu kỳ lụt, ai đời như năm nay, lụt (tiểu mãn) vào tháng hai ta.
Lụt Huế thay ngày tháng năm, nhưng ký ức thì khó phai mờ, như tùy bút dưới đây…
HÀ LINH
1.
Con đường xa tắp. Chuyến đi xuất phát với lòng tin nơi đến là cuộc hành trình từ bỏ hạnh phúc con người.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
Ngắm những ruộng bậc thang chín vàng rực rỡ cả thung lũng, ít ai nghĩ rằng cái tên Mù Cang Chải theo tiếng người H’Mông có nghĩa là làng Cây Khô.
Lời người sưu tầm: Có những người xuất hiện với tác phẩm đầu tay như một ánh chớp, gây xôn xao và hâm mộ trong bạn đọc một thời nhưng rồi sau đó, mặc dầu cũng có một sự nghiệp văn học, có hàng bao nhiêu trăn trở tìm tòi, rồi cũng có dăm bảy, thậm chí hàng chục tác phẩm tiếp theo nhưng không sao tìm thấy được sự khởi sắc sâu đậm như tác phẩm ban đầu.
HÀ KHÁNH LINH
Bút ký
Trường được thành lập từ năm 1963.
Thầy và trò lần lượt ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đến nay chỉ còn sót lại hơn một nửa, tìm cách liên lạc với nhau mãi mới thực hiện được một chuyến trở về tìm lại dấu tích mái trường xưa - giờ đã nằm sâu vào lãnh thổ nước Lào...
PHƯƠNG ANH
Tôi thường chọn cho mình những phút giây lặng lẽ, bình yên của những ngày vào thu ở một góc quán vắng để ngắm nhìn dòng xe xuôi ngược, mỗi chuyến xe là một cuộc đi.
VÕ NGỌC LAN
Tôi vẫn thường thắc mắc không hiểu có ai sống với nhau tròn trăm năm không? Bởi tuổi của đời người mong manh, chẳng ai chờ ai, rồi lại nghĩ mình có ngộ nhận chữ nghĩa trăm năm đó không?
PHI TÂN
Bút ký
Phá Tam Giang trải dài theo hướng từ Bắc vào Nam, song song với bờ biển từ huyện Phong Điền cho đến huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), được chảy vào bởi ba con sông lớn là sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương.
NGUYỄN THẾ TƯỜNG
Truyện ký
"Kiến Giang nước chảy một dòng
Bên bồi bên lở đau lòng hay chưa"
(Ru con Lệ Thủy)
VI THÙY LINH
Trong các phần của cơ thể con người, tóc thuộc về ngoại hình mà câu chuyện tóc liên quan, ảnh hưởng tới nhiều mặt, từ mỗi con người tới lịch sử nghệ thuật, xã hội. Tóc rụng hằng ngày nhưng mấy ai thương tóc. Đời tóc đi qua những đời người.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
Bạch Mã có mối lương duyên thuần khiết với mây, đến cái tên gọi cũng bắt nguồn từ những áng mây quanh năm quần vũ trên chóp núi.
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Bút ký
Trong chuyến hành hương trên đất Phật chúng tôi đã đến ba vùng đất quan trọng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, ba địa danh nằm trên đất Ấn Độ đó là Boddhgaya nơi Đức Phật sau bao thăng trầm trong cuộc tìm kiến chân lý đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và giác ngộ.
PHƯƠNG ANH
Tôi đã từng nhìn vào ánh mắt của những người đàn bà, những người mẹ; những đôi mắt luôn ẩn giấu những câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Bởi cuộc đời họ dường như chẳng có lấy được một phút giây thanh thản để tự hỏi rằng: Mình là ai?
NGUYỄN VĂN UÔNG
Tết về là gói bánh tét. Thế mà bây giờ cái mặc nhiên ấy không còn là mặc nhiên. Cái ông già tuổi đã cổ lai hy cứ nhớ vẩn vơ chuyện ấy mỗi khi Tết về.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Đi qua miền sơn cước lớp lớp mây mù giăng trên những đầu núi, vượt đèo A Co, những cơn gió đông của A Lưới heo hút, lạnh băng xộc từ những hẻm núi sâu táp sa mặt mũi.
LÊ THỊ MÂY
Bút ký
O tôi đã gần tám mươi tuổi. Thuở con gái o đã từ chối đôi ba đám trai làng đội cau trầu đến ngõ dạm hỏi. Ở vậy không chồng con, o sớm tối vào ra một mình, cửa nhà heo hút.
NGUYỄN TUYẾT LỘC
Những tháng ngày đẹp nhất và có ý nghĩa nhất với tôi, không phải thời thơ ấu chỉ nghe và thấy cảnh chết chóc lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang cao trào khi theo ba là bác sĩ chuyển nhiệm sở từ Huế ra Đồng Hới, Quảng Bình.