Sông Hương đã có tên ấy tự bao giờ

10:46 02/07/2010
NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.

Sông Hương - Ảnh: otofun.net

Bạn đọc có người nghĩ: chắc tác giả không có thì giờ để lục soát. Nhưng cũng có bạn nghĩ: đó là một dụng ý khá tài tình để người đọc một khi đã xấp tờ báo, còn bị dư hương theo dõi. Có khác chi khéo tả một giai nhân tuyệt thế mà không nói lai lịch, im lặng thách đố người nghe cứ đi tìm. Thì bạn đọc cùng tôi hãy đi tìm vậy.

Lẽ tất nhiên câu chuyện không đơn giản, và trước hết, tưởng cần đặt lại câu hỏi: sông Hương đã có tên ấy tự bao giờ? Đặt câu hỏi như vậy có lẽ kém phần nghệ thuật, nhưng chắc chắn có phần thiết thực và sắc bén hơn để ta nắm được những đầu mối sưu tầm. Thật vậy và phương pháp cần cù tìm kiếm vẫn là phương pháp hay nhất, chắc nhất. Ta cứ “lần giở trước đèn” một số tác phẩm xưa, để tìm lại những nhận xét tinh vi, những tình cảm sâu đậm qua các thời đại, ít nhiều tương quan đến mảnh đất và con sông hiền từ, im lặng của xứ Huế. Đó là một việc không khó lắm. Đầu xuân, đó cũng là một công việc lý thú, chắc các bạn cũng nghĩ như tôi, mặc dù cũng có khi không thoải mái lắm khi phải tiếp xúc với một tác giả có tài mà không có hạnh, như trường hợp Lê Tắc (hay Lê Trắc), khi mở xem quyển “An nam chí lược”. Nhưng đó vẫn là một tác phẩm có giá trị, khá xưa, viết từ năm 1333 theo bài tựa của chính tác giả, mà chúng ta cần tra cứu trước tiên (1). Mục núi sông nằm ngay trong quyển nhất, nhưng tuyệt nhiên, các con sông ở châu Ô, châu Lý, không được đề cập đến, mặc dù năm 1306, vua Chiêm, Chế Mân, đã đem hai châu ấy làm lễ cưới công chúa Huyền Trân.

“Ức trai Dư địa chí” (2) soạn năm 1438 với những thêm bớt về sau, trong đoạn nói về Thuận Hóa, tuy ngắn nhưng cho ta biết những tên và sự kiện rất bổ ích: “biển là biển Nam Hải. Vân là núi ở cửa ải - Linh là tên sông”. Biển Nam Hải ở đây tức là biển Đông. Vân là núi Hải Vân - Linh là Linh giang con sông ở phủ Triệu Phong, Thừa Tuyên, Thuận Hóa, nói rõ hơn là con sông Hương ngày nay từ ngã ba Sình, nơi có thành Hóa Châu đến cửa Eo (Cửa Thuận) (3). Phủ Triệu Phong có 2 châu và 6 huyện, trong đó có huyện Đan Điền và huyện Kim Trà - những tên nói trên sẽ giúp ta so sánh với những tên có trong hai tác phẩm quan trọng “Ô Châu cận lục” và “Phủ biên tạp lục”, như sẽ nói sau.

“Hồng đức bản đồ” (4), một tác phẩm gồm nhiều tập khá phức tạp, phần thứ nhất do Đỗ Bá, tự Đạo phủ soạn năm 1490, với nhiều bản đồ trong đó có 13 bản của 13 Thừa tuyên. Thừa tuyên Thuận Hóa gồm một bảng kê tên các phủ, huyện, châu, và một bản đồ hình thể các núi sông, nhưng không một tên núi, tên sông nào được ghi rõ. Số và tên các phủ huyện phù hợp với “Ức trai Dư địa chí”.

Lần giở đến tác phẩm “Ô châu cận lục” của Dương Văn An (5) viết năm Ất Mão (1555) dưới triều Mạc, ánh sáng về nguồn gốc các tên sông đã bắt đầu ló dạng, những địa danh chính xác trong “mục đồ bản” quyển 3 giúp ta rất nhiều trong việc tra cứu: Huyện Kim Trà, xã Kim Ngọc, xã Hà Khê, xã Long Hồ, Vĩ Dạ… Đó là tên những miền mà con sông, hiện mang tên sông Hương đã và đang đủng đỉnh đi qua. Một tên sông làm ta lưu ý: sông Linh Giang (6). Tác giả “Ô châu cận lục” viết: “sông do hai nguồn Kim Trà, Đan Điền đổ đến, rộng sâu vô hạn, khuất khúc hữu tình. Phía nam thì có đền Tứ vị, trạm Địa linh; phía đông bắc thì có chùa Sùng Hóa, bia Hoằng Phúc. Còn chuyên nha, phủ thự, đều đối nhau ở hai bên tả hữu. Vốn là con sông to trong huyện Đan Điền, ngọn nguồn rất xa, dòng sông rất dài. Ngôi đền Minh Uy đứng vững ở đầu nguồn, tòa thành Thuận Hóa (7) khóa chặt lấy thủy khẩu. Còn như xóm hoa nội biếc, đất tốt dân đông, chợ nọ cầu kia, vật hoa, người quý, đều la liệt ở hai bờ Nam Bắc”.

Thế là sông Linh Giang là tên khúc sông Hương ngày nay, từ ngã ba Sình đến cửa Thuận, và cách đây trên 400 năm vùng nầy đã đông đúc, sầm uất, thịnh vượng đến thế, trong lúc Huế ta hiện nay lúc bấy giờ chưa mảy may xuất hiện! Đến “mục thành thị”, khi nói đến thành Hóa Châu, Dương Văn An ghi rõ: Thành ở địa phận huyện Đan Điền (8), sông cái Đan Điền chảy qua phía tây, lại có một dòng sông con chảy vào trong thành, phía hữu con sông ấy la liệt những trường học, nha môn Đô thừa phủ Triệu Phong. Sông cái Kim trà rót vào phía nam đập lớn chầm to ước nghìn vạn khoảnh. Các dòng nước bọc cả bốn bề, giữa có một tòa thành trăm nhận (9) sừng sững như đám mây dài. Đó là nơi địa hình kết hợp, thêm tạo đặt bày vậy”.

À! Những tên “Sông cái Đan Điền”, “Sông cái Kim Trà” làm ta thấy rõ tên sông theo tên huyện - sông Kim Trà, vì đi qua huyện Kim Trà, sông Đan Điền vì đi qua huyện Đan Điền, và như thế, một con sông có thể có nhiều tên, tùy theo địa danh của mỗi khúc, và ta suy đoán, về sau, khi huyện Kim Trà đổi thành huyện Hương Trà thì con sông sẽ được gọi sông Hương Trà.

Đến lượt “Phủ biên tạp lục”, chúng ta thử tìm thêm ánh sáng trong tác phẩm giá trị bậc nhất này của nhà bác học Lê Quý Đôn, viết về “Đàng Trong”, nhất là về Thuận Quảng, từ thế kỷ XVIII trở về trước, năm Bính Thân 1776, tại các Triêu Dương, khi ông được chúa Trịnh bổ làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ tại Phú Xuân, và đã có dịp “nhẹ áo lỏng đai, tiêu dao ở khoảng Hà Khê Thiên Mụ”.

Khi nói đến những con sông của đất Thuận Hóa, những tên sông Linh Giang, sông Kim trà, sông Đan Điền vẫn được Lê Quý Đôn dùng đến, như trong “Ô châu cận lục”. Lúc bấy giờ thủ phủ Đàng Trong đã đóng tại thành Phú Xuân, ở góc đông nam kinh thành bây giờ, vì năm Đinh Mão 1687, Nguyễn Phúc Trăn đã dời phủ đến xã Phú Xuân, cách phủ cũ (xã Kim Long) hơn năm dặm (10). Tưởng cũng nên nghe Lê Quý Đôn, với ngòi bút sinh động, đã mô tả Phú Xuân lúc bấy giờ như thế nào.

“Đất Phú Xuân, huyện Hương Trà (tôi nhấn mạnh - NHĐ) xưa là xã Thụy Lôi… Đất rộng, bằng, như bàn tay… ở trong là Chính dinh, đất cao, bốn bề đều thấp… trông xuống bến sông… Từ năm Đinh Mão Chính hòa thứ 8 đến nay chỉ 90 năm, mà ở trên thì các phủ thờ ở Kim Long, giữa thì cung phủ hành lang (11), dưới thì nhà cửa ở Phủ ao. Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi tên đề biển, có hai điện Kim hoa, Quang hoa có các nhà Tựu lạc, Chính quan, Trung hoa, Di nhiêu, đài Sướng xuân, các Dao Trì, các Triêu dương, các Quang thiên, đình Thụy vân, hiên Đồng lạc, am Nội viên, đình Giáng hương, công đường, trường học và trường súng. Ở thượng lưu về bờ nam có phủ Dương xuân và Phủ Cam. Ở trên nữa có phủ Tập tượng; lại dựng điện Trường Lạc, hiên Duyệt võ, mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ, mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát nền bằng đá, trên lát ván kiền kiền, những máng xối đều làm bằng kẽm để hứng nước… Vườn sau thì núi giả đá quý, ao vuông hồ quanh, cầu vồng thủy tạ, tường trong tường ngoài đều xây dày mấy thước, lấy vôi và mảnh sứ đắp thành hình rồng phượng, lân hổ, cỏ hoa. Ở thượng lưu và hạ lưu chính dinh đều là nhà quân bầy hàng như bàn cờ.

Những nhà của quân lại ở đối ngạn. Xưởng thuyền và kho thóc thì ở các xã Hà Khê, Thọ Khang trên thượng lưu. Còn nhà vườn các công hầu quyền quý thì chia bày ở hai bờ phía thượng lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu phủ Cam. Ở thượng lưu hạ lưu phía trước Chính dinh, chợ phố liền nhau, đường cái đi ở giữa, nhà cửa chia khoảng nối liền đều là mái ngói. Cây to bóng mát tả hữu thành hàng. Thuyền buôn bán, đò dọc ngang, đi lại như mắc cửi. Bài “Sơn minh” của Chu Dũ Tín có câu: “Thanh ý xuân môn, câu cừ giao ánh; lục hòe thu thị, chu tiếp tương thông” (Cửa xuân như giải vóc xanh, khe ngòi ánh lộng; chợ thu dưới bóng hòe lục, thuyền chèo qua lại), tưởng cảnh sắc cũng như thế thôi”.

Đọc đoạn trên, ta có thể tự hào về quá khứ xa xưa của đất Phú Xuân, nhưng cũng không quên rằng những cung điện nguy nga ấy đã mọc trên đất thấm đầy mồ hôi nước mắt của dân tộc, để thương tiếc những gì từ xưa còn lại, và tránh những hành vi đối xử vụ lợi, thiển cận.

Trở lại vấn đề tên các con sông, chúng ta nhận thấy trong mục danh hiệu phủ, huyện, trong “Phủ biên tạp lục”, tên xưa hai huyện Đan Điền và Kim trà, không còn nữa mà đã được thay bằng hai tên mới, Quảng Điền và Hương Trà. Thế nhưng, về tên sông, nguồn, Lê Quý Đôn đã dùng lẫn lộn Hương Trà, Kim Trà ở nhiều nơi, thậm chí có nơi còn dùng cả tên huyện Kim Trà. Việc thiếu chính xác ấy có thể xuất phát từ lý do việc đổi tên còn tương đối mới, nhân dân còn quen tên cũ, và Lê Quý Đôn cũng theo nhân dân, dùng lẫn lộn.

Đọc kỹ “Phủ biên tạp lục” ta chưa thấy xuất hiện cái tên sông Hương, cho đến gần cuối tập, khi nói đến vấn đề cá, mới thoải mái gặp được câu: “Xứ Thuận Hóa, sông Hương cá sông nhiều. Có giống cá tên là cá thệ…” Nhưng rồi, tiếp đó, người dịch đã chú thích ở cuối trang “Bản Viện sử học chép rằng: xứ Thuận Hóa sông có rất nhiều cá, xứ Quảng thường không kịp. Cá có giống tên là cá thệ…” Tra cứu thêm bản dịch và in tại miền Nam trong chế độ cũ (12) lại thấy: “Sông Thuận Hóa có thứ cá được gọi là cá thệ..” Đâu đúng đâu sai, đâu là bản chính tay Lê Quý Đôn soạn? Một điều chắc, là thời chúa Nguyễn, tên sông Hương Trà đã có rồi, chính Lê Quý Đôn, như đã nói trên, cũng có khi dùng tên ấy. Từ “sông Hương Trà” đến “sông Hương”, chỉ còn một bước, vì trong ngôn ngữ, bất cứ ngôn ngữ nước nào, dân gian thường hay rút gọn. Vả chăng, hai chữ sông Hương đẹp quá, giới văn chương, trí thức, cũng không muốn gì hơn. Nhưng, bạn đọc cùng tôi cứ nhẫn nại, đào sâu hơn nữa.

Đến thời đại Tây Sơn, chỉ độ mươi năm sau, và chỉ lục soát trong lĩnh vực thơ văn, chúng ta cũng lượm được những chứng liệu hiển nhiên, Ngô Thì Nhậm, trong bài thơ “Đạo ý” (gợi ý) có hai câu:

“Ức tích minh lương hội nhất đường, Hương Giang ngự tất hổ tiên đường”.

Ngô Linh Ngọc dịch:

“Nhớ buổi vua hiền gặp đống lương, Đường tiên hầu bước nẻo sông Hương” (13)

Về phần thơ Phan Huy Ích, sau bài “Xuân để ký sự” (Mùa xuân ở công quán ghi việc), tác giả đã viết ở lời nguyên dẫn: “Nhà của quan Thái sư (Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền lâm cũ, nằm về phía nam sông Hương…” (14)

Thế là, tên “sông Hương” dưới thời đại Tây Sơn đã có rồi, và, gần chắc, đã có từ trước. Từ ngữ “Nam sông Hương” cũng đã thông dụng và có nghĩa khá chính xác. Nhưng có thể có bạn đọc khó tính, muốn có chứng liệu cụ thể, vì sao gọi “sông Hương”?

Bộ sách địa lý lớn dưới triều Nguyễn “Đại Nam nhất thống chí” khi mô tả sông Hương, không nói đến nguồn gốc cái tên nầy. Nhưng bộ sử biên niên “Đại Nam thực lục chính biên” có đoạn viết: “Năm Tân Dậu (1801) mùa hạ, tháng năm, ngày Bính Dần, vua đi Quảng Bình, lưu quốc thúc Tôn thất Thắng giữ kinh thành. Thuyền ngự khởi hành từ sông Hương, sông Hương tức là sông Hương Trà, vì nước ngọt nên gọi thế…” (15). Chúng ta nghĩ, ngọt ở đây không có nghĩa ngọt mặn, mà có nghĩa nước sông Hương pha trà, thơm, ngọt.

Đến đây, chúng ta trả lời được câu hỏi: “sông Hương đã có tên ấy tự bao giờ? Riêng tôi, cám ơn bạn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng cũng trách đã dựng lên một đầu đề thật sự trớ trêu.

Xuân 1983
N.H.Đ
(1/5&6-83)


----------------
1. Lê Tắc - An Nam chí lược - Huế 1961 vấn đề soạn niên của An Nam chí lược vẫn còn trong vòng tranh luận.
2. Trong Nguyễn Trãi toàn tập. Hà Nội 1976
3. Ngày trước sông Giang và sông Hương đều có tên Linh Giang. Tuy vậy, lời chú thích trong Nguyễn Trãi toàn tập, trang 627: “Linh Giang là sông Gianh ở tỉnh Quảng Bình” xét ra không phù hợp nếu chúng ta 1- lưu ý rằng miền thành Hóa châu, trên sông Hương là nơi đã xảy ra những sự kiện lịch sử quan trọng hàng đầu, trong thời gian trước và sau soạn niên Ức Trai Dư Địa chí (1438). Những sự kiện lịch sử ấy là: 1414 - Lê Phụ và Mộc Thạnh đánh chiếm thành Hóa châu - Lê Phụ đặt người cai trị ở đó - 1425 Lê Lợi sai Trần Hãn đánh quân Minh ở Tân Bình và Hóa châu - 1428 quân Minh rút về. Lê Lợi thấy Hóa châu là trọng trấn, sai trọng thần đến trấn thủ - 1434 Người Chiêm đánh Hóa châu - Lê Khôi và Lê Chính (Chuyết) chống giữ mãnh liệt. 1446- đại phá quân Chiêm và 2- phối hợp tham khảo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần Dư địa chí- Quyển V Thuận Hóa (phủ Triệu Phong và phủ Tân Bình). Đoạn núi sông - trang 132 - 133 tập 1 - LTHCLC Hà Nội 1960.
4. Hồng đức bản đồ - tủ sách viện khảo cổ Sài Gòn 1962.
5. Ô châu cận lục - Dương Văn An. Bản dịch Bùi Lương -Sài Gòn 1961.
6. Không lẫn lộn với sông Gianh ở Quảng Bình.
7. Tức Hóa thành hay thành Hóa châu.
8. Về sau là Quảng Điền.
9. nhận: nhà Chu định 8 thước là một nhận chừng 6 thước, 4 tấc, 8 phân bây giờ (ghi theo từ điển Trung Quốc Từ Nguyên và Hán Việt từ điển Thiều Chửu) Sài Gòn 1966.
10. chừng 2,7 km.
11. hành lang: vợ chúa thời Phúc Khoát. Vợ cả thì gọi tả hành lang, các vợ lẻ thì gọi hữu hành lang.
12. Phủ biên tạp lục - tủ sách cổ văn - bản của Lê Văn Giáo - Sài Gòn 1973.
13. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm Hà Nội 1978, QI, trang 196.
14. Thơ văn Phan Huy Ích, Hà Nội, 1978 tập II, trang 86.
15. Đại Nam thực lục chính biên. Đệ nhất kỷ I. Q XIV. Viện Sử học xuất bản - Hà Nội 1961 - tập II, trang 428.






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.