Số phận của những khẩu thần công thời Nguyễn

08:53 17/01/2019

HỒ VĨNH

Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.

Bốn khẩu trong Cửu vị thần công có tên Xuân, Hạ, Thu, Đông tại Huế - Ảnh: wiki

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, do việc mở mang giao thương, với các nước Đông Á (như Trung Hoa, Nhật Bản) và các thương nhân phương Tây (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Tây Ban Nha...) Việt Nam đã nhờ họ cải tiến kỹ thuật đúc súng tương đối tinh xảo.

Đến thế kỷ XIX (thời kỳ đầu của nhà Nguyễn) xuất hiện nhiều kiểu pháo lớn, gắn trên giá có bánh xe, nạp đạn qua miệng pháo với những quả đạn gang tròn. Những khẩu pháo có thành tích được phong tước Hầu, tước Bá... Trong giai đoạn 1802-1885 súng thần công là vũ khí quan trọng hàng đầu trang bị cho những binh đội thiện chiến của nhà Nguyễn. Hiện nay thành phố Huế còn lưu giữ được 33 khẩu. Đây là những di vật cổ bằng đồng có giá trị lịch sử quý hiếm được đúc dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng. Qua nghiên cứu thực tế chúng tôi đã lập bảng thống kê.

Trong 33 khẩu thần công đó có 22 khẩu bằng đồng và 11 khẩu bằng sắt. Chín khẩu súng bằng đồng (Cửu vị thần công) đúc thời Gia Long (1804) có kích thước lớn nhất, nặng nhất và được trang trí đẹp nhất. Chiều dài của mỗi khẩu là 5,10m, đường kính nòng 0,23m, nòng dày 0,43m, phía sau đo vòng quay được 2,6m, giá để súng bằng gỗ dài 2,75m, cao 0,73m, mỗi khẩu nặng hơn 10 tấn. Phía bên phải có khắc bài chế thuốc và có các loại đạn. Ngoài ra trên thân mỗi súng có khắc một bài minh nêu lý do đúc súng. Có tám dải hoa văn trang trí hình hoa lá chạy quanh thân súng. Giữa thân súng có gắn hai quai lớn chạm hình hai con lân. Ở gờ cuối cùng gần khối hậu có hai hàng chữ Hán: hàng trên có ba chữ "Mệnh Gia Long" (Lệnh vua ban xuống) hàng chữ dưới được chia làm hai phần: phần phải ghi chức tước và tên nhóm "Danh thần uy vô địch Thượng Tướng Quân cửu lập đệ nhất" (Súng được xếp thứ nhất trong chín vị tước Danh thần uy vô địch Thượng Tướng quân), phần trái ghi năm tháng phong tước danh "Thập ngũ niên tuế thứ Bính Tý cát nguyệt nhật" (súng được phong tặng năm Gia Long thứ 15 (1816) vào ngày tháng tốt). Ngoài ra ở cuối núm súng được khắc nổi một chữ Hán chỉ tên riêng của súng. Súng đặt bên trong cửa Quảng Đức theo thứ tự từ trong ra: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Theo tài liệu cho biết chín khẩu thần công này chỉ để dùng trang trí và thị uy, chưa hề sử dụng trong việc chinh chiến.

Bên cạnh cửu vị thần công, Viện Bảo tàng cổ vật Huế tại số 3 Lê Trực còn lưu giữ hai khẩu thần công đúc thời Minh Mạng. Đây là hai khẩu đại bác duy nhất có khẩu kính 310 ly. Hai khẩu này đặt trên hai bệ xi măng. Súng đặt bên trái dài 1,06m, trên thân súng có bốn khoang 3 gờ chia thân súng không đều nhau, thân súng để trơn, không có trang trí hoa văn. Trên gờ cuối cùng gần lỗ điểm hỏa có hàng chữ Hán: "Ngự chế - Thần uy phá địch Đại Tướng quân đệ nhất lập" (Súng làm ra xếp thứ nhất tước Danh thần uy vô địch Đại Tướng quân). Ở cuối núm của súng trên gờ nổi có khắc hàng chữ "Minh Mạng thập ngũ niên chú" (Súng đúc năm Minh Mạng thứ 15) (1834).

So với Cửu vị thần công, hai khẩu súng đúc thời Minh Mạng không có bảng chỉ dẫn cách bắn, cách dùng đạn và cũng không có bảng giới thiệu kích thước và trọng lượng. Bên cạnh súng còn đặt một viên đạn bằng đá tròn có kích thước 299mm.

Tại di tích Trấn Hải Thành (bảo vệ cửa Thuận An) có 3 khẩu, mỗi khẩu nặng 1.500 kg. Ba khẩu súng này đã có thành tích chống Pháp trong ba ngày 16, 17, 18 tháng 7 năm Quí Mùi (1883). Ngày 12/8/1989 vừa rồi chủ tịch xã Hà Trọng Phương đã bán ba khẩu súng lịch sử này cho ông Nguyễn Oanh (người cùng xã) với số tiền 200.000 đồng. Nhân dân xã Thuận An đã phản ánh với cảnh sát kinh tế thành phố, ba khẩu súng được thu hồi. Đáng tiếc là một trong ba khẩu súng ấy đã bị ông Nguyễn Oanh cho người "cưa đứt làm hai"(1). Ba khẩu súng kể trên hiện để tại cơ quan công an thành phố Huế. Cũng trong thời gian ấy, bọn chuyên đi đào sắt vụn đã đào trộm một khẩu thần công ở khu vực Đại nội - Huế, may sao Công ty quản lý di tích lịch sử và văn hóa phát hiện và thu hồi được.(2)

Ở địa phận xã Thủy Phù huyện Hương Thủy (cách Huế chừng 15km về phía nam, trên quốc lộ 1A) có hai khẩu thần công đúc thời Gia Long. Dưới chế độ cũ, nơi đây là cơ quan quân sự, hai khẩu súng này có lẽ chở từ Huế về và đặt trước cổng để trang trí. Sau năm 1975, cơ quan chuyển làm doanh trại của một đơn vị bộ đội. Đầu năm 1989, chúng tôi về nghiên cứu còn thấy hai khẩu thần công ở đó nhưng đến nay đã mất. Qua điều tra được biết kẻ gian lợi dụng lúc cơ quan bàn giao cho đơn vị khác, đã "gánh đi" bán sắt phế liệu vào tháng 10 năm 1989.(3)

Lúc "cơn sốt đồng" đang tăng nhiệt độ ở một số địa phương, Công ty quản lý di tích và văn hóa Huế buộc phải di chuyển hai khẩu thần công đặt trước Phu Văn Lâu vào giữ ở nhà Hữu Vu (Đại Nội-Huế). Hai khẩu thần công này có cùng chiều dài đo được 1,34m và có hình dạng giống nhau. Thân súng có sáu khoang, sáu gờ, phân chia không đều nhau, đầu súng thon nhỏ lại, miệng hơi loe, phần đuôi phình ra và được đúc kín (gọi là khối hậu), cuối cùng là một mún tròn hơi dẹt. Thân súng có gắn quai hình rồng, cách nhau 12cm. Ở khoảng cuối súng có lỗ điểm hỏa, ở trên mặt súng có chạm một miếng hoa văn nổi. Trên gờ cuối cùng có hai hàng chữ: hàng trên "Mệnh Minh Mệnh" (Lệnh vua ban xuống), hàng chữ dưới được chia làm hai : phần phải ghi "Danh thắng uy tướng quân đệ cửu lập" (Súng xếp thứ chín tước Danh Thắng uy Tướng quân); phần trái ghi: "Nhị niên tuế thứ Tân Tỵ cát nguyệt nhật tạo” (Súng làm năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) vào ngày lành tháng tốt). Trục quay hình trụ dài 77mm, đường kính 80mm. mặt ngoài hình tròn (của hai bên trục quay) có khắc chữ: Trục bên phải ghi "Lục bách ngũ thập lục cận thông trường tam xích tứ thốn nhị phân, tâm trường tam xích tâm hoành vãng nhị thốn nhị phân" (nặng 656 cân, chiều dài ba thước bốn tấc hai phân, chiều dài nòng (tổng cộng) ba thước, bề ngang (đường kính) hai tấc hai phân); trục bên trái ghi: "Đích xạ hảo hạng dược nhị cân tứ hạng bi chỉ dụng cương bi nhị thốn nhất phân" (Bắn trúng tốt nhất thuốc đạn hai cân bốn lạng, đạn bi sắt hai tấc một phân).

Hiện nay phía trước Phu Văn Lâu, Công ty quản lý di tích và văn hóa Huế trưng bày hai khẩu súng thần công mô phỏng theo kiểu hai khẩu súng trên bằng chất liệu xi-măng cốt sắt.

Ngoài 28 khẩu súng của thời Nguyễn, Viện Bảo tàng cổ vật Huế còn lưu giữ năm khẩu có ký hiệu và chữ số của Hà Lan. Những khẩu súng này có lẽ là chiến lợi phẩm của trận đánh nổi tiếng giữa thủy quân ta và đội tàu chiến Hà Lan vào tháng 4 năm Giáp Thân (1644): "50 chiếc thuyền vùn vụt như bay trên mặt bể, tập trung công phá ba chiếc tàu của Picter Back. Thủy quân Nam Việt nhảy lên tàu chiến địch, đẵn cột buồm, chặt bánh lái, cắt dây lèo, đánh giáp lá cà bằng bạch khí. Quan quân Hà Lan hoảng sợ đến mức đô đốc Picter Back cùng 200 quan quân Hà Lan chìm theo soái hạm"(4). Đây là trận hải chiến lịch sử thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687).

Tất cả số súng đại bác kể trên đều có trọng lượng khác nhau nhưng nói chung chúng đều nặng và được đúc rất dày. Chúng tôi chưa có điều kiện xác định trọng lượng số súng còn lại.

Theo Đại Nam nhất thống chí: Mặt tiền chỗ Chính trung xây kỳ đài, ở trên thành (cả 4 mặt) có xây 25 pháo đài... và có 455 sở pháo xưởng canh điếm(5). Như vậy số đại bác trước đây được bố trí trên hệ thống chiến lũy ở kinh thành Huế trên 450 khẩu.

Trong một chuyến điền dã, chúng tôi có dịp khảo sát 24 pháo đài ở kinh thành Huế. Theo chỗ quan sát của chúng tôi chỉ có một pháo đài duy nhất còn lại một tấm bia. Bia cao 0,58m, rộng 0,43m, dày 0,13m, mặt trước bia khắc nổi ba chữ: "Đông Phụ Đài" (cỡ chữ 14x13 cm) (Pháo đài Đông Phụ). Pháo đài này kế bên Đông Thành Thủy quan (tục gọi là Cống Lương Y). Cách bia chừng 12m có một kho thuốc súng xây theo kiểu cuốn vòm rất chắc. Pháo đài Đông Phụ được bố trí bốn nhóm pháo lộ (chỗ lõm xuống để đặt súng) gồm hai nhóm ở hai mặt và hai nhóm ở hai hông. Các pháo lộ cách nhau 5,50 m ở mặt ngoài và 4,40 m ở mặt trong, bề cao chỗ kê súng 0,22m, khoảng cách giữa đáy và đỉnh pháo lộ 0,85m, chiều rộng mặt trước 0,86m, phía sau tường bắn được trổ rộng 2,55m để đặt súng và đứng bắn. Như vậy pháo đài Đông Phụ có 8 pháo lộ đều có kích thước giống nhau. Dĩ nhiên trước đây ở 8 pháo lộ này phải bố trí 8 khẩu đại bác và có cùng 8 khẩu đội. Muốn bắn những khẩu đại bác này phải thao tác như sau: tống thuốc nhồi vào bên trong khối hậu thật chặt, tiếp đến luồn dây ngòi qua lỗ châm ngòi vào trong khối hậu, xong tiếp đến nạp cho viên đạn gang tròn có đường kính 100 mm vào nòng (viên đạn này dành cho loại súng có khẩu kính 105 ly), sau đó đánh lửa châm ngòi.

Việc bắn súng phức tạp như vậy nên mỗi khẩu pháo có một khẩu đội 5 người phục vụ dưới quyền chỉ huy của một khẩu đội trưởng: Pháo thủ 1: mang đạn, Pháo thủ 2: mang thuốc, Pháo thủ 3: nhồi thuốc, Pháo thủ 4: đánh lửa, Pháo thủ 5: châm ngòi.

Tất cả các loại súng đại bác bằng đồng thời Nguyễn đã cải tiến và tiếp cận với kỹ thuật mới. Dựa theo kích thước, khẩu kính và trọng lượng, chúng tôi tạm thời phân 33 khẩu đại bác còn tìm thấy ra làm 3 hạng:

Hạng nhẹ từ 20mm đến 100mm: 12 khẩu.

Hạng vừa khoảng trên dưới 155mm: 10 khẩu.

Hạng nặng từ 155mm trở lên: 11 khẩu với tầm đạn xa trên 1200 m.

Vào đêm 22 rạng 23/5/1885 trên 450 khẩu đại bác đã bố trí khắp tất cả 24 pháo đài ở kinh thành Huế được sử dụng. Đầu canh tư (1 giờ sáng), Tôn Thất Thuyết lệnh nổ súng bắn vào đài Trấn Bình (Mang cá nhỏ). Đại úy Bruy-nô bị một mảnh đạn xuyên ngực chết ngay. Đại úy Đơn-ru-in gãy hai ống chân. Tiếng đại bác mỗi phút một giòn giã vang trời chuyển đất (6). Lần đầu tiên pháo lớn của quân đội Việt Nam được sử dụng nhiều nhất. Và, cũng là lần đầu tiên quân đội Việt Nam thấy được sự lạc hậu của pháo lớn Việt Nam xưa. Dù sao, những khẩu súng lớn ấy cũng là một di sản vô giá đánh dấu một giai đoạn công nghệ Việt Nam.

Để đúc những khẩu đại bác nghìn cân ấy phải có một hiệp thợ đúc đồng có kỹ thuật cao, biết tổ chức phối hợp đồng bộ qua các khâu làm mẫu, tạo khuôn, đúc, làm nguội và trang trí. Kỹ thuật đúc súng thần công của Việt Nam xưa không chỉ nổi tiếng về kích thước, trọng lượng mà còn về trình độ pha chế kim loại cao. Hoa văn, chữ khắc rõ ràng, chắc nét. Hình thức mang tính biểu tượng mạnh mẽ.

Ba mươi khẩu đại bác bằng đồng và sắt còn lại ngày nay là những di vật cổ hiếm quí. Đây là những tác phẩm nghệ thuật biểu thị tài năng bậc thầy của những nghệ nhân đương thời, nhưng chúng đang bị "Cơn sốt đồng" và "sắt phế liệu" đe dọa ngày đêm. Xin báo động để những cơ quan có trách nhiệm và đồng bào cùng lo.

Huế 4.1.1991
H.V
(TCSH45/03-1991)


----------------
(1) Vụ mua bán trái phép và phá hoại di tích lịch sử xã Thuận An, báo Tin Huế, số 9 (Bộ mới) ra ngày 1.9.1989. tr.10.
(2) Theo lời kể của bác Hoàng Dương - nhân viên bảo vệ Công ty Quản lý di tích lịch sử và Văn hóa Huế.
(3) Theo lời kể của anh Nguyễn Chung ở xã Thủy Phù huyện Hương Thủy.
(4) Nguyễn Mạnh Hảo, Thủy quân ta ngày ấy diệt đội tàu chiến Hà Lan, báo Quân đội nhân dân thứ bảy, ra ngày 15.9.1990. Tham khảo thêm Trần Hà Thanh, Công cuộc mở mang miền Nam của Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687), chương IV Hiền Vương thắng thủy quân Hà Lan năm 1644, Đại học Văn Khoa Huế, Huế 1974, In ronéo.
(5) Đại Nam nhất thống chí, Kinh sư, Sài gòn 1960, trang 17.
(6) Nguyễn Xuân Thọ, Cuộc bạo hành tại Huế ngày 5-7-1885, vụ cướp phá hoàng cung - cuộc đề kháng của vua Hàm Nghi và triều Đồng Khánh, tập san Sử Địa số 14-15, Sài Gòn, 1969, trang 14.





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.

  • HOÀNG NGỌC CƯƠNG

    LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.

  • TÔN THẤT BÌNH

    Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.

  • CAO THỊ THƠM QUANG

    Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.

  • TRẦN VĂN DŨNG   

    Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.

  • THANH HOA - LÊ HUỆ

    Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.

  • VÕ QUANG YẾN

    Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.

  • “Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế,  từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.

  • PHẠM HỮU THU

    Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.

  • LÊ QUANG THÁI

    Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.

  • Một số thông tin chung

    Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:

  • Một số thông tin chung

    Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết. 

  • LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
    Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI

    Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.

  • Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.