Internet, việc số hóa sách và sự ra đời của những công cụ đọc sách điện tử, chính những cái mới ấy, cùng sự phổ biến chúng trong đời sống một cách rất nhanh chóng, đã buộc người ta phải nêu câu hỏi: Liệu đã sắp đến lúc sách giấy “cáo chung”?
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ nói chung, đương nhiên, nhằm vào việc phục vụ những nhu cầu mới, ngày một nhân bội của con người trong xã hội hiện đại. Nhưng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hình như, từ những thành tựu tưởng toàn là đáng mừng ấy lại đẻ thêm ra một vài nỗi bất an cứ lớn dần khi ngày tiễn chân ngày đi vào quá khứ. Internet, việc số hóa sách và sự ra đời của những công cụ đọc sách điện tử, chính những cái mới ấy, cùng sự phổ biến chúng trong đời sống một cách rất nhanh chóng, đã buộc người ta phải nêu câu hỏi: Liệu đã sắp đến lúc sách giấy cáo chung? Nỗi bất an hiển hiện trong câu hỏi này, có lẽ, không chỉ là nỗi bất an của một số ít người đang sống bằng việc sản xuất và kinh doanh sách giấy. Nhiều hơn gấp bội, nó là nỗi bất an của những người mê sách, những người coi cuốn sách không đơn giản như một vật thể chứa đựng cái cần đọc, mà như một thế giới luôn mời gọi người ta nỗ lực đi vào khám phá để được đền bù bằng sự hiểu biết và cả trăm thứ khoái lạc tinh thần khác. Nói cách khác, với những người này, cuốn sách (giấy) chính là biểu tượng của tri thức, trí tuệ. Và vì thế, biết đâu đấy, nỗi bất an ấy sẽ dẫn họ đến trước một viễn cảnh thật nguy hiểm: Sự sụp đổ của văn hóa/ văn minh?
Không ngẫu nhiên tôi lại đặt giả định như vậy. Vào một ngày đẹp trời, khi ông đạo diễn và cô hoa hậu nọ bị chường ra trước mắt bàn dân thiên hạ bằng một bức ảnh, mà trong đó, ông và cô đang cùng tọa trên những chiếc ghế được kê cao thêm bằng các chồng sách, thì sóng gió đã lập tức xảy ra: Người ta, bỏ qua vật trung gian là chiếc ghế, sôi sục phản đối và kịch liệt lên án hành vi “ngồi trên sách” của họ, xem đó như một sự coi rẻ/phỉ báng/lăng nhục sách vở, một biểu hiện của sự vô văn hóa không còn gì chối cãi. Sao lại có thể như thế kia chứ, ở một đất nước nhiều nghìn năm văn hiến, với một dân tộc chuộng sự học, tôn vinh tri thức và yêu sách vở chữ nghĩa đến gần như sùng bái? Người ta bảo, trước kia, nhìn thấy tờ giấy có chữ viết rơi trên mặt đất, cũng không ai dám giẫm chân lên. Người ta kể, nhiều gia đình coi sách như gia bảo, sách được truyền từ đời ông qua đời cha đến vài đời con cháu; những cuốn sách được bọc bìa da, in chữ nhũ vàng, sóng gáy đứng trang nghiêm trong các tủ sách. Người ta ca tụng những người coi sách như vật thiêng, xem việc đọc sách như một nghi lễ, mỗi lúc mở cuốn sách để đọc là một lần phải bật lạp đốt trầm để tỏ lòng thành kính. Người ta nói cả đến chuyện ở những đâu đó, trên đất nước này thôi, biết bao nhiêu đứa trẻ nghèo luôn ước ao được sở hữu dăm cuốn sách mỏng... Trước, và xuyên qua những ào ạt phẫn nộ như vậy, ta nhận thấy gì?
Theo tôi, có vài sự đáng để ngẫm nghĩ.
Trước hết, không xa xôi gì cho lắm, ta vẫn nghe báo chí rền rĩ ca thán về sự đi xuống của cái gọi là “văn hóa đọc” ở Việt Nam hiện nay. Sự ca thán ấy không phải vô căn cứ, khi những số liệu thống kê tương đối chính xác của cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản cho biết: Người Việt Nam đọc sách chưa đến 1 cuốn/người/năm. Mỗi đầu sách được in ra thường chỉ dao động trong khoảng từ 1.000 - 2.000 cuốn. (Riêng sách của nhà xuất bản Tri Thức - tức những cuốn sách mà người Nhật Bản, khi nhận thấy tầm quan trọng của chúng đối với sự phát triển quốc gia, đã dốc toàn lực để dịch, in, và phổ biến ngay từ thời Minh Trị - chủ yếu dừng ở hạn mức 500 cuốn/đầu sách). Trong khi, phải luôn nhớ điều này, dân số Việt Nam hiện đã là 90 triệu người. Nghĩa là, theo những con số thống kê lạnh lùng, quyết không thể nói nước Việt Nam hiện nay là một quốc gia ham đọc sách. Ai đó có thể sẽ nhắc tôi về chuyện những con số thống kê trên không bao hàm khối người đọc chỉ đọc sách trên internet và các công cụ đọc sách điện tử. Nhưng chắc rằng, ngay cả gộp đối tượng này vào đây, ta cũng ít cơ may để có một con số bớt ảm đạm hơn. Nếu vậy, hình như cái việc người ta phẫn nộ trước hành vi “ngồi lên sách” đầy tính mạo phạm kia, có cái gì đó… hơi kịch: Ai mà biết được chứ, bao nhiêu người trong số những người đang bừng bừng quát mắng kia có khi lại là kẻ quanh năm chẳng hề ngó lấy một trang sách?
Lại nữa, sách - với tư cách một vật thể được đẩy lên thành biểu tượng - trong thực tế đã phải chịu sự coi rẻ/phỉ báng/lăng nhục, thậm chí bách hại, với những cách thức nhiều hơn chỉ một hành động bị ngồi lên. Tôi nhớ đến nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Orhan Pamuk, chủ nhân của giải Nobel văn chương năm 2006, khi ông kể lại trong tập tiểu luận “Những màu khác” về việc mình đã vứt bớt sách đi như thế nào. Một hôm nào đó, giữa trận động đất, Pamuk nghe thấy tiếng cót két từ những kệ sách trong thư viện của mình. Điều đó tự nhiên khiến ông hoảng sợ, và ông quyết định trừng phạt nó, cái thư viện ấy, bằng cách nhặt ra 250 cuốn để vứt đi. Song không phải vứt đi một cách tùy tiện, mà có nguyên tắc: “Chúng ta có thể vứt đi một số lớn sách chỉ để không ai biết bạn từng xem những cuốn giẻ rách ấy là nghiêm túc”. Những cuốn “giẻ rách” ấy - như Pamuk nói một cách chung chung: một Thú Nhận Chính Trị, một Bản Dịch Tồi, một Tiểu Thuyết Thời Thượng, một Tập Thơ Trong Đó Mọi Bài Thơ Đều Giống Nhau và Giống Tất Cả Những Bài Thơ Khác - khiến nhà văn “xấu hổ vì từng coi trọng nó”. Dĩ nhiên, cái vứt đi với người này có khi lại đáng giá với người khác, và ta sẽ còn phải bàn cãi nhiều về chuyện đó. Nhưng rõ ràng ở đây, “vứt đi” là kết quả của một sự phân loại sách nghiêm túc. Và dù thế nào, giữa một rừng sách cũng phải có những cuốn sách chỉ đáng để vứt đi. (Nghĩa là, thậm chí chẳng cần phải giữ lại dù chỉ để… ngồi lên chúng). Tuy vậy, xét về mức độ của việc thể hiện quan điểm phủ định, vứt sách đi còn là nhẹ. Sách đã từng bị đốt nhiều lần, trong suốt thời Trung cổ ở châu Âu, trên giàn hỏa của những tòa án dị giáo. Cách đây chưa đến 70 năm, chính quyền Đức Quốc xã cũng đã lặp lại việc ấy, cuồng nhiệt hơn gấp bội. Nên coi đó là sự hủy diệt, hay rốt cuộc, nên coi đó như một sự phân loại sách theo cách khác?
Trong cuốn “Đừng mơ từ bỏ sách giấy” - thực chất là một cuộc chuyện trò lan man đầy thú vị giữa ba con người cực kỳ uyên bác và cũng vô cùng hài hước - Umberto Eco, học giả, nhà văn lừng danh người Italia đã cho chúng ta biết về cái điều mà chính quyền Quốc xã thực sự muốn qua việc đốt sách: “Kẻ kiểm duyệt biết rất rõ rằng không thể thiêu hủy hết tất cả các bản của cuốn sách mà hắn muốn loại trừ. Nhưng đó là một cách để tự tôn mình thành tạo hóa đủ khả năng thiêu hủy thế giới và bất kỳ quan niệm nào về thế giới trong lò lửa. Lấy cớ là phục hồi, thanh lọc một nền văn hóa đã bị một số cuốn sách làm cho suy thoái”. Nghĩa là, hành động đốt sách ở đây hoàn toàn mang tính tượng trưng. Nó là cách để Quốc xã “tự tôn mình thành tạo hóa”. Nhưng mặt khác, chính việc chúng lựa chọn những cuốn sách nào để bỏ vào lò lửa lại mang ý nghĩa một sự chỉ dẫn để người ta, trong những điều kiện khả thể, đã tìm đến, cất giấu và đọc những cuốn sách đó, như thưởng thức những giá trị văn chương/ khoa học đích thực. Về điểm này, chúng ta có một nhân chứng: Marcel Reich Ranicki, nhà phê bình văn học Đức gốc Do Thái Ba Lan, người được mệnh danh là Giáo hoàng của văn chương Đức. Trong cuốn tự truyện “Đời tôi”, ông kể lại rằng, năm 1933, ông đã căn cứ vào những tên sách, tên tác giả bị bôi mực đỏ trên danh mục của thư viện thành phố Berlin, tức những cuốn sách của những tác giả bị loại, để tìm đọc. Trong bảng liệt kê dài dặc của Marcel Ranicki, ta có thể nhìn thấy những tên tuổi chói sáng của văn chương Đức ngữ, như: Thomas Mann, Heinrich Mann, Klaus Mann, Stefan Zweig, Bertold Brecht, Anna Sergher, Tucholsky… Và ông đã tìm được hết, không đến nỗi khó, vì trừ những bản sách bị thiêu hủy, nhiều bản còn lại vẫn được cất giữ trong kho các nhà xuất bản hoặc trong tủ sách các gia đình tư sản. Tóm lại ở đây, với lịch sử, ít ra thì việc Đức Quốc xã đốt sách đã được lợi dụng theo một nguyên tắc: Nếu nó là xấu xa, thì những cuốn sách nó loại bỏ chính là những cuốn sách tử tế.
Trở lại với chi tiết mà tôi đã nêu ở phần đầu bài viết, tức bức ảnh hai người ngồi trên những chiếc ghế được kê cao thêm bằng các chồng sách. Thực lòng tôi rất muốn biết đó là những cuốn sách nào, tác giả là ai? Nhưng chịu, không thể nhìn ra. Có lẽ bản thân đương sự cũng không hề biết, khi đơn giản đó chỉ là bối cảnh của một trường quay talk show truyền hình, họ đến với tư cách khách mời và ngồi vào chỗ mà người khác đã sắp sẵn để sao cho có được khuôn hình tốt nhất. Nhưng cứ thử giả định rằng đó toàn là những tác phẩm văn chương kinh điển của thế giới, và chúng hiển hiện trước mắt người xem, thì sao nhỉ? Tôi tin rằng sự phẫn nộ sẽ còn ào ào dâng cao hơn thế nữa.
Và tôi cũng vẫn tin rằng không vì thế mà những tác phẩm này, vốn đang chịu số kiếp hẩm hiu từ 1.000 - 2.000 bản/đầu sách, sẽ “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” để được in tới 10 vạn, 20 vạn bản, mặc cho người ta đang đau đớn cùng mình vì biểu tượng của tri thức/ trí tuệ bị lăng nhục. Hơn nữa, nói sao mặc lòng, cuốn sách giấy vốn không phải một thứ cổ mẫu hằn sâu trong vô thức tập thể của nhân loại. Đã từng xuất hiện nhiều hình thức cuốn sách trước khi sách giấy ra đời. Do vậy, dù đồng ý với Umberto Eco rằng “đừng mơ từ bỏ sách giấy”, nhưng nếu sách giấy có bị xuống giá bằng những phủ định nào đó, ta cũng không nên quá ngạc nhiên.
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.