Ruộng tịch điền và vị vua khởi xướng dưới triều Nguyễn

09:31 30/05/2018

TRẦN ĐÌNH BA

1. Lược sử, ý nghĩa lệ cày ruộng tịch điền
Trước hết, chúng ta phải khẳng định một sự thật hiển nhiên rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, hay nói như lời nhà Nho Phan Kế Bính (1875 - 1921) có đề cập trong Việt Nam phong tục, thì đó là một “Nông quốc”1, quốc gia lấy nông nghiệp làm gốc.

Chuẩn bị cho lễ cày tịch điền (Nguồn http://tocphamtruong.com)

Nước Việt, trong suốt chiều dài lịch sử từ thời lập quốc cho đến thậm chí là trước đổi mới năm 1986, về cơ bản, là một quốc gia nông nghiệp. Học giả Nguyễn Văn Vĩnh, khi nói về  kinh tế nước Việt, đã luôn khẳng định rằng, không phải bất cứ một ngành nghề nào khác, mà chính nông nghiệp và chỉ có thể là nông nghiệp, mới là tài sản gốc quý giá nhất của dân Việt. Điều này, được ông chứng thực trong bài viết “Ruộng đất, cơ sở của tài sản An-nam” đăng trên báo L’ annam Nouveau số 80, 1931 và khẳng định “Cho nên chúng tôi hoàn toàn tin ở tương lai của xứ sở này, nơi đất bao giờ cũng nuôi người” 2. Vậy là với vị thế gần như độc tôn của mình, nông nghiệp luôn được các thể chế chính trị quan tâm.

Với vai trò quan trọng của nông nghiệp, các triều đại nối tiếp nhau trong lịch sử nước Việt đều luôn “Dĩ nông vi bản”. Còn riêng đối với người nông dân, tài sản vô giá của họ và gia đình, chính là sức kéo, đất đai. Nếu “con trâu là đầu cơ nghiệp”, thì ruộng đất chính là “tấc đất tấc vàng”. Nông nghiệp được xem là vấn đề kinh tế ảnh hưởng lớn lao đến sự thịnh vượng hay suy vong của các triều đại. Người nông dân chiếm số lượng đông đảo tuyệt đối trong xã hội, kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chính trong nền kinh tế. Triều đại nào, vị vua nào có chính sách cho việc nông tang tốt, giúp dân no đủ, thì quốc thái dân an. Ngược lại, nếu để cho mùa màng bị thất bát, dân bị đói, thì nào là loạn lạc, dân phiêu tán, xã hội bất ổn. Bởi vậy, các triều đại không ngừng thể hiện sự quan tâm đến nền kinh tế cày bừa này.

Để khuyến khích nông nghiệp, mỗi một triều đại đều có những biện pháp giống hoặc khác nhau tùy mức độ tiếp cận cũng như hoàn cảnh thực tế để tạo điều kiện cho diện tích, năng suất canh tác không ngừng nâng cao. Nào là luật lệ bảo vệ sức kéo, trị tội trộm cắp, xẻ thịt trâu bò, nào là đặt chức quan Hà đê sứ, nào miễn giảm thuế mỗi khi mất mùa, nào chính sách hạn điền, hạn nô,… Ngoài những biện pháp thực tế tác động trực tiếp vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cũng có những biện pháp mang tính khuyến khích về mặt tinh thần, tâm linh mang tính lễ nghi như thờ Thần Nông, tế Nam Giao, cày tịch điền3… Trong đó, biện pháp cày tịch điền được thực hiện tương đối sớm.

Về ruộng tịch điền, khi dịch Khâm định Việt sử thông giám cương mục ra quốc ngữ, các dịch giả đã chú thích rằng đó là “Thửa ruộng chính thiên tử tự cày lấy, hoa lợi sẽ dùng vào việc cúng tế” 4. Đây là một nghi lễ nông nghiệp có khởi nguyên từ Trung Hoa, mà vua Minh Mạng đã có ghi trong dụ của mình ngày 30 tháng 5 năm Mậu Tý (1828), có đoạn: “Từ Đường Ngu đến Chu [lễ này] rất phân minh đầy đủ. Từ Hán trở về sau, có nhiều việc làm trái với xưa, nhưng lễ này cũng không dám bỏ” 5. Trong Cổ sử tân thâm, nhà sử học người Trung Quốc Dương Khoan cho biết ruộng tịch điền là loại ruộng cày cấy, hoa lợi thu được từ loại ruộng này sẽ được dùng vào việc tế tự, hoặc còn dùng cả cho việc chẩn cấp cho dân nghèo hay tiếp khách. Và đây là loại ruộng tàn dư của thời công xã nguyên thủy6. Lễ cày tịch điền ở Trung Quốc nhằm ngày hội xuân, vua quan lần lượt xuống ruộng cày một vài đường đất nhằm khích lệ nông dân phát triển nông nghiệp. Sau khi đã làm lễ cúng Thần Nông, nhà vua đích thân xuống cày 3 luống.

Từ sự giao thoa văn hóa, phong tục, lệ cày tịch điền sau đó được vua Việt ứng dụng để khuyến khích nông nghiệp nước nhà với ý nghĩa thiết thực. Qua ghi chép còn để lại trong sử sách, thì vua Lê Đại Hành (980 - 1005) là vị vua đầu tiên đã “xuống đồng” để cày tịch điền. Các vị vua của những triều đại về sau nối tiếp thành một tục lệ khuyến nông tốt đẹp và duy trì đến thời nhà Nguyễn.

2. Cày tịch điền thời vua Minh Mạng

Vua Minh Mạng được đánh giá là một vị vua Nguyễn có nhiều chính sách canh nông ưu việt thời nhà Nguyễn. “Dĩ nông vi bản” gắn với vua Minh Mạng trong sự nghiệp xây dựng một nước Đại Nam hùng mạnh, chính trị ổn định, kinh tế phát triển, biên giới lãnh thổ được mở rộng. Đó là biểu hiện cao nhất của một quốc gia lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế, cũng như cơ sở, động lực cho sự tồn tại của thể chế chính trị. Việc khuyến khích nghiệp nông tang tạo điều kiện cho diện tích, năng suất canh tác không ngừng nâng cao. Trong đó, biện pháp cày tịch điền được thực hiện tương đối sớm và đến thời Minh Mạng được tiếp tục phục dựng, duy trì, có tính điển lệ dưới triều Nguyễn sau nhiều năm chiến tranh đình trệ.

Là một vị vua anh minh, vua Minh Mạng tỏ rõ sự quan tâm của mình tới nghề gốc của dân. Vì thế việc khuyến khích nông nghiệp được vua chú ý, trong đó có lễ cày tịch điền. Vua Minh Mạng đã tỏ bày “Dân coi lương thực là trời, nên lễ cày tịch (cày ruộng tịch điền) không thể nào bỏ” 7. Sự hiểu biết của vua về lệ cày ruộng tịch điền không chỉ ở việc biết rằng nghi lễ ấy có nguồn gốc từ Trung nguyên, mà ở nước Việt ta, ngài còn cho hay, nghi lễ này được thực hiện từ thời Lê. Và ý nghĩa của lễ cày tịch điền, được vua chỉ rõ “Đời xưa vua cày ruộng tịch điền, để lấy gạo làm xôi tế Giao Miếu, nhân thể để xét thời tiết làm ruộng khuyên giúp nông dân, thực là việc lớn trong vương chính” 8.

Vua cũng tỏ bày rằng vua cha (chỉ vua Gia Long) sau khi việc binh đao xếp lại, vương triều được lập, cũng một lòng coi trọng nghề nông, tiếc rằng các quan bộ Lễ chưa hiểu rõ tấm lòng ấy, chưa khảo chứng lại được tục lệ xưa để khôi phục. Nói vậy, nhưng cũng phải đến năm thứ chín thời trị vì của mình, vua mới khôi phục lại được tục lệ khuyến nông tốt đẹp này. Ấy là vào mùa xuân tháng 2 năm Mậu Tý (1828), vua Minh Mạng đặt ra lễ cày ruộng tịch điền. Tuy lần đầu tiên làm lễ cày tịch điền, nhưng cách thức, nghi lễ cày tịch điền được vua Minh Mạng và triều thần thực hiện rất quy củ, cẩn trọng. Ruộng tịch điền ngay ở trong kinh thành Huế thuộc hai phường Hậu Sinh, An Trạch chứ không như các triều đại trước vua cày tịch điền ở các địa phương gần kinh thành. Nghi lễ thực hiện, được miêu tả trong Đại Nam thực lục Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.

Ban đầu là việc chuẩn bị lúa giống để gieo trồng nơi ruộng tịch điền, được thực hiện rất kỹ lưỡng, “chiểu tư cho các hạt chọn mua các hạng thóc nếp thơm, thóc trắng, có thể gieo trồng được, phải phân biệt hạng nào hết hạn cày cấy sớm hay muộn, phải nên ruộng sâu hoặc ruộng khô, đệ nộp lên tất cả”. Lúa giống được chọn theo từng địa phương có thế mạnh về giống lúa ấy, như “phủ Thừa Thiên, thóc thơm ở An Cựu, thóc nếp ở An Thuận; tỉnh Quảng Trị thóc Minh Xuân, thóc trắng mỗi hạng đều hai hộc; tỉnh Quảng Nam, thóc nếp thơm, thóc cánh mỗi thứ hai hộc; ở Bắc thành, thóc cánh, thóc nếp mỗi thứ ba hộc, đều giao cho phủ Thừa Thiên cất vào kho để đùng” 9.

Trâu bò cày ruộng tịch điền cũng phải đảm bảo sức kéo tốt, và việc này do phủ Thừa Thiên lĩnh nhận phần việc. Bò cày chọn hai con, một con chính, một con phụ. Trâu đen cày 12 con. Việc nuôi trâu, bò cày tịch điền được thực hiện với chuồng trại tắm nghỉ ở ngoài thành, phía hữu sau Kinh thành. Nhân lực để tham gia lễ cày tịch điền, cũng như chăm sóc ruộng này có 30 nông phu ở xã Phú Xuân, có cấp lương mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo.

Diện tích cày ruộng tịch điền, có quy chế cụ thể với 4 mẫu 4 sào 4 thước 4 tấc 9 phân. Trong đó dùng 2 mẫu 9 sào 12 thước 5 tấc 9 phân để cấy thóc nếp. 1 mẫu 4 sào 6 thước 9 tấc 2 phân dùng cấy thóc cánh. Các loại thóc giống được đưa về từ các địa phương được gieo trồng và đánh dấu để sau này thu hoạch, biết được giống nào cho hạt mẩy chọn làm thóc giống sang năm.

Để thực hiện lễ nghi trang nghiêm, thể hiện sự tôn kính với thần nông nghiệp, triều đình cũng quy định nơi làm ruộng tịch điền ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch, thì bên tả dựng đài Quan Canh, đằng trước là ruộng tịch điền, đằng sau là điện thay áo, bên hữu là đàn Tiên Nông và đình Thần thương trữ thóc. Lại có cả sở Diễn canh (tập cày) ở phía bắc cung Khánh Ninh, có tên là vườn Vĩnh Trạch. Thời gian cày ruộng tịch điền hàng năm, được vua quy định là vào ngày tốt tháng 5. Vậy, cách thức cày tịch điền như thế nào?

Trước khi cày, phủ Thừa Thiên có nhiệm vụ cho nông dân cày bừa ruộng tịch điền trước cho đất mềm ra. Trước 5 ngày cày tịch điền, vua sẽ thân chinh ra vườn Vĩnh Trạch xem tập cày. Một ngày trước khi cày, quan phủ Thừa Thiên dâng 1 cái roi, 1 cái cày, 1 thùng thóc đặt lên án vàng ở thềm giữa điện Cần Chánh. Vua kiểm tra nông cụ. Ngày cày ruộng tịch điền, giờ Tỵ vua đến cung Khánh Ninh nghỉ. Giờ Tý cúng Tiên Nông. Giờ Mão vua tế đàn Tiên Nông. Việc ấy xong xuôi, vua thay trang phục mũ cửu long, áo hoàng bào, đai ngọc bằng mũ Đường cân cửu long, áo long bào chẽn tay, thắt đai ngọc rồi bắt đầu thực hiện việc cày ruộng tịch điền:

“Vua tay phải cầm cày, tay trái cầm roi, kỳ lão và nông phu đều 2 người dắt trâu, thị vệ 2 người đỡ cày. Ca sinh hát bài “Hòa từ”, nhạc sinh múa cờ màu; nhã nhạc cử nhạc. Phủ Thừa Thiên bưng thúng thóc đi theo. Hoàng tử cùng quan Hộ bộ đều cử một người theo sau vãi thóc. Vua cày 3 đường đi 3 đường lại xong, ngự lên đài Quan Canh”10. Sau đó, tới lượt các hoàng tử, rồi các quan văn võ tiếp lượt cày theo số đường cày khác nhau. Hoàng tử, thần công thì cày 5 đường đi 5 đường lại, văn võ đại thần cày 9 đường đi 9 đường lại. Các thuộc lại kinh huyện đi theo sau bưng thùng thóc vãi lúa.

Hoạt động cày ruộng tịch điền, thể hiện nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Thóc thu được từ ruộng này, dùng làm xôi cúng tổ tiên, đó chính là lòng kính nhớ tới công ơn của tiền nhân. Ý nghĩa rộng lớn hơn nữa, thể hiện sự quan tâm của vua đối với sự vất vả một nắng hai sương của nhà nông, cũng như thể hiện sự coi trọng hoạt động kinh tế nông nghiệp lúa nước. Qua nghi lễ cày ruộng tịch điền của vua Minh Mạng, ta còn thấy được những điều đáng lưu ý. Trước đây, chẳng hạn như thời Lý - Trần, ruộng tịch điền được triều đình sử dụng ngay những khu ruộng công như Đọi Sơn, Tín Hương, Ứng Phong,… và sau khi làm lễ xong thì giao cho dân địa phương cày cấy11. Nhưng vua Minh Mạng lại khác. Nhà nước đã sử dụng riêng một phần diện tích ruộng đất làm ruộng tịch điền, tính chất linh thiêng của loại ruộng này rõ ràng thể hiện rõ hơn. Ruộng lại được phân ra các phần trồng lúa nếp, lúa tẻ có hơn kém khác nhau, quy chế cụ thể.

Trước khi vua cày ruộng tịch điền, thì mảnh ruộng đó đã được “chăm sóc” kỹ càng để cho đất mềm, nhuyễn. Giống đã được chọn và tích trữ trước đó trong kho. Thời Lý - Trần, theo GS. Trương Hữu Quýnh, nông dân cày ruộng tịch điền theo nghĩa vụ lao dịch thì vua Minh Mạng đã có quy chế lấy số lượng nông phu thạo nghề nhất định để cày cấy, chăm sóc mảnh ruộng đó, có lương bằng tiền, gạo. Suy xét, ta thấy tính chuyên nghiệp ở thời vua Minh Mạng trong cày tịch điền đã nâng cao so với trước.

Lại nói về lễ cày tịch điền ở trên. Sau khi làm lễ cày ruộng tịch điền một thời gian, ngày 30 tháng 5 năm Mậu Tý (1828), vua dù chỉ mới đẩy cày ba đường, nhưng đã phần nào trải nghiệm sự vất vả của nhà nông, nên đã ban dụ cho các quan truyền lệnh “gia ân miễn giảm ba phần mười số thuế thóc gạo năm Minh Mệnh 10, để tỏ rõ lòng trẫm suy nghĩ đến mọi việc”12. Qua cày ruộng tịch điền, vua không chỉ nhắn nhủ cho muôn dân thấy sự quan tâm của đấng kim thượng với hoạt động nông tang, mà còn nhắc nhở đội ngũ quan viên thay mặt triều đình chăm dân, phải hết lòng hết sức mà khuyến khích nghề nông, nên trong lời tổng kết dụ ở trên, vua ghi rõ “Từ nay về sau, người có trách nhiệm với dân phải hiểu được ý của trẫm khuyến khích việc nông tang, làm cho dân đủ ăn đủ mặc, vui vẻ ấm no, để an ủi tấm lòng coi trọng nghề nông, tôn sùng đạo gốc của trẫm”13.

Ngoài việc vua đích thân xuống đồng cày, thì sau đó năm Nhâm Thìn (1832) ngài cũng định lệ cày ruộng tịch điền kể từ năm Quý Tỵ (1833) cho các địa phương với những quy cách, thể lệ rất chi tiết. Tỉ như đất cày tịch điền ở phía ngoài thành của tỉnh hay trấn, đặt làm 3 mẫu tịch điền, lấy dân sở tại 15 người, sung làm nông phu tịch điền và giữ đàn sở, trừ miễn lao dịch. Lại dự bị một con trâu đen để cày ruộng tịch điền và 2 con trâu đen để làm trọn khu ruộng ấy. Đồ cày ruộng và thóc nếp đều có đủ. Mỗi năm trên bộ báo cho biết ngày cày tịch điền thì các viên Tổng đốc, Tuần phủ hay trấn quan đem các văn võ thuộc hạt, mặc triều phục, tới đàn Tiên nông làm lễ. Trang phục cày tịch điền là mũ văn công, áo bào hàng màu, hẹp tay, thắt dây lưng, vận quần ngắn đi giày và bí tất. Quy cách cày là cầm cày, 2 người kỳ lão dắt trâu, 2 người nông phu đỡ cày; thông phán, kinh lịch bưng hòm, một người gieo thóc. Cày 9 luống lại; khi xong, lại đổi mặc triều phục làm lễ ở vọng khuyết 5 lạy. Lễ xong, thì nông phu cày trọn khu ruộng ấy. Sau khi cày, gieo hạt, chăm sóc thì lúa thu được ở ruộng ấy để làm xôi cúng tế14. Đến thời vua Tự Đức nghi lễ cày ruộng tịch điền có những thay đổi nhất định. Chẳng hạn như năm Giáp Dần (1854), xem xét việc có thể mệnh quan (quan Kinh doãn) đi cày thay, hoặc năm Ất Mão (1855) quyết định sau lễ Cung canh (vua tự cày) thì không ban thưởng các loại the (vải) cho các quan trông coi việc để giảm chi phí15… Hay vào năm Mậu Dần (1878), diện tích ruộng tịch điền ở các địa phương được tăng thêm so với trước để có thể tự cung ứng lúa gạo tịch điền, không phải mua ngoài nhân gian mà lại đảm bảo ý nghĩa16.

Vậy là lệ cày ruộng tịch điền được các triều vua trải qua thời gian dài tiếp nối, duy trì như một tục lệ tốt đẹp, thể hiện sự tôn vinh nền nông nghiệp lúa nước, coi trọng nghề nông. Riêng ở thời Nguyễn, vua Minh Mạng trở thành vị vua tiên phong khôi phục lại tục lệ tốt đẹp ấy, cũng như ban hành những quy định mang tính quy củ để đời sau noi theo, thể hiện sự trân trọng của nhà nước đối với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, một trong những cơ sở tồn tại của chế độ phong kiến Trung ương tập quyền ở nước Nam ta.

T.Đ.B
(TCSH351/05-2018)


--------------------------
1. Phan Kế Bính (1970), Việt Nam phong tục, Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tr. 253.
2. N.V.V, “Ruộng đất, cơ sở của tài sản An-nam”, L’annam Nouveau số 80, 1931. Xem Nguyễn Văn Vĩnh (2013), Lời người man di hiện đại: Phong tục và thiết chế của người An Nam, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 186. Bài viết trên được dịch ra tiếng Việt bởi Dương Tường.
3. Pierre Huard, Maurice Durand (1993), Hiểu biết về Việt Nam (Connaissance du Vietnam), Nxb.  Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 186 - 187.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb. Giáo  dục, Hà Nội, tr. 243.
5. Minh Mệnh (2000), Ngự chế văn (Dụ văn), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện  Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, tr. 270.
6. Xem Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, tập I: Thế kỷ XI -  XV, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 73.
7. Minh Mệnh, Ngự chế văn (Dụ văn), Sđd, tr. 270.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập Hai, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 712.
9. Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập III, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 109.
10. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Hai, Sđd, tr. 713.
11. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, tập I: Thế kỷ XI - XV, Sđd, tr. 73 - 74.
12. Minh Mệnh, Ngự chế văn (Dụ văn), Sđd, tr. 270.
13. Minh Mệnh, Ngự chế văn (Dụ văn), Sđd, tr. 270.   
14. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Ba, Sđd, tr. 278.  
15. Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, tập 4, Nxb. Giáo  dục, Hà Nội, tr. 187 - 188.
16. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Tám, Sđd, tr. 273.   






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.