Nhà thơ Mai Văn Hoan - Ảnh: truongquochochue.com
Ở nước ta, trong các tuyển tập thơ sau cách mạng đều có mặt những bài thơ tình. Những bài thơ ấy ngoài sự kết hợp nhuần nhuyễn nội dung và hình thức, hiện thực và lãng mạn, tình cảm và lý trí… còn có sự kết hợp hài hòa cái chung và cái riêng. Khảo sát mối quan hệ riêng chung bộ phận thơ tình 1945-1975 có thể rút ra được nhiều điều bổ ích. Qua việc khảo sát này, phần nào giúp chúng ta hiểu thêm nguyên nhân thành công của những bài thơ tình được đông đảo bạn đọc ưa thích, góp phần giúp chúng ta xác nhận thêm sự phát triển của nền thơ sau cách mạng và giúp chúng ta khẳng định vị trí, những đóng góp quan trọng của bộ phận thơ tình đối với sự nghiệp cách mạng mà lâu nay chưa được chú ý nghiên cứu, đánh giá đúng mức. Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, nhưng cũng là một dân tộc “vừa nhân hậu lại đa tình đa mang” (Lâm Thị Mỹ Dạ). Trải qua bao nhiêu thế kỷ, mặc cho sự cấm đoán của giai cấp thống trị phong kiến tiếng nói trái tim vẫn cất lên trong hàng nghìn bài ca dao với đủ mọi cung bậc: vui buồn, sung sướng, đau khổ, nhớ thương, hờn giận… “Đôi ta xa nhau thiên hạ cũng đều buồn Bốn phương trời chuyển động, tám ngọn nguồn rung rinh” Đến giữa thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX, khi ý thức về cá nhân đã được nâng lên, trong văn học viết đề tài tình yêu mới được khởi sắc như những đóa hoa xuân. Nguyễn Du, Phạm Thái là hai thi sĩ rất có công mạnh dạn thể hiện đề tài này. Tiếp theo những nguồn mạch trong mát ấy, từ sau cách mạng 1945 bộ phận thơ tình trong nền văn học chân chính của chúng ta càng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, góp phần không nhỏ vào việc thể hiện tâm hồn con người Việt Nam vào những năm tháng đầy những biến cố lịch sử. Cái “tôi” của thơ tình sau cách mạng càng ngày càng vươn tới để hòa vào trong cái “ta” chung của mọi người, của giai cấp, của dân tộc, của thời đại. Ở những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta rất khó tìm thấy những bài thơ tình. Các nhà thơ lãng mạn có tên tuổi đi kháng chiến đang rất lúng túng, “Cái phần công dân trong con người họ còn đứng tách riêng ra, tụt lại sau, nhìn ngắm, tìm tòi” (Chế Lan Viên). Cái riêng còn bị “gạt phăng”, còn bị xem là đối lập, cản trở cái chung. Những người cầm bút chưa phân biệt thật rạch ròi những tình cảm chính đáng với những “tính riêng” cá nhân ích kỷ. Năm 1948 Nguyễn Đình Thi có bài “Không nói”. Bài thơ kết thúc trong khung cảnh: “Mưa rơi ướt mái đầu Mỗi đứa một khăn gói … Nào đồng chí - bắt tay! Em Bóng nhỏ Đường lầy…” Chia tay, anh vẫn gọi người yêu là “đồng chí”. Tiếng “em” anh vẫn cố giấu kín trong lòng và chỉ khẽ gọi với theo khi bóng dáng người yêu dần khuất. Phải mấy năm sau, Vũ Cao mới không ngần ngại đặt “em” ngang với “đồng chí”: “Nhớ nhau, anh gọi: em - đồng chí” (Núi đôi). Để được một câu thơ ta đọc cứ ngỡ rất bình thường như thế, những người cầm bút phải tự vượt lên mình qua bao tìm tòi, băn khoăn, trăn trở. Hoàn cảnh khốc liệt của cuộc kháng chiến trong thời kỳ đầu dễ khiến người ta nén lòng mình lại. Cái riêng lúc này muốn hòa được vào cái chung, đòi hỏi cần phải có thời gian, đòi hỏi nhận thức phải được nâng lên, để có thể so sánh mà không còn sợ ai bắt bẻ: “Anh yêu em như yêu đất nước”… (“Nhớ” - Nguyễn Đình Thi). Sau khi hòa bình lập lại, bước vào giai đoạn đấu tranh thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thơ tình đã rút ngắn được tình trạng chệch choạc về sự hòa hợp riêng chung ở giai đoạn trước. Vào những năm 1956-1957 chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều bài thơ tình. Đáng chú ý nhất có lẽ là bài “Đêm sao sáng” của Nguyễn Bính. Nét quí ở bài thơ này là sự hòa hợp riêng chung nhuần nhuyễn đến mức khó lòng phân biệt nó với những bài thơ tình thuần khiết viết về nỗi nhớ tình yêu, mà người đọc vẫn nhận ra bài thơ gắn rất chặt với công cuộc đấu tranh thống nhất: “Sao đặc trời sao sáng suốt đêm Sao đêm chung sáng chẳng chia miền Trời còn có bữa sao quên mọc Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em.” Từ 1957 đến 1965 Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế hanh… lần lượt công bố những “chùm nhỏ thơ yêu”. Ngày trước Huy Cận ngắm người yêu ngủ và ru, lời ru nghe buồn não nuột “Hồn anh đã chín mấy mùa thương đau”. Giờ đây, nhà thơ lại vẫn ngắm người yêu ngủ và ru, lời ru không còn “ngậm ngùi” nữa mà ấm áp hơi thở của một người đang yêu, cảm thấy tình yêu của mình gắn với tình yêu của mọi người: “Hai ta đôi hát giữa nghìn đôi” (Bài thơ anh viết). Ngày trước, Chế Lan Viên chán nản đến mức muốn nhặt hết “hoa thơm muôn cánh rã” để “về đây, đem chắn nẻo xuân sang”. Giờ đây, anh dí dỏm tuyên bố: “Mặc kệ lời Phật dạy Miếng tình ta cứ ăn” (Đi trong hương chùa Hương) Ngày trước, Xuân Diệu yêu “vội vàng” bởi hoảng hốt trước thời gian trôi đi quá nhanh và tuổi già đến quá sớm. Giờ đây, nhà thơ vẫn yêu say đắm, nồng nàn nhưng không còn “vội vàng” nữa: “Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ thật êm Hôn êm đềm mãi mãi” (Biển) Đó là chưa kể “Chiêm bao”, “Rét nàng bân”, “Bài thơ tình Hàng Châu” của Tế Hanh; chưa kể những bài thơ “vượt tuyến” làm xôn xao cả nước của Giang Nam, Thanh Hải, của đồng bào Hơ-rê… như “Nhớ nhiều, ơ nhớ lắm”, “Quê hương”… Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ tình nói riêng và thơ nói chung lại tiến thêm một bước mới. Lúc này hơn lúc nào hết trách nhiệm công dân và say mê cá nhân để hòa chung làm một. Cái riêng và cái chung kết hợp một cách máu thịt. Người cầm bút có thể nói hết cái “tôi” riêng. Viết về buổi tiễn đưa, nhà thơ không cần phải dấu những giọt nước mắt, viết về nỗi nhớ tình yêu nhà thơ khai thác hết mọi khía cạnh. Người viết không còn né tránh khi nói đến đau thương mất mát. Ở “Quê hương” dù sao Giang Nam vẫn còn dè dặt, đến “Bài thơ về hạnh phúc” Dương Hương Ly đã không e ngại khi viết “anh mất em như mất nửa cuộc đời”, “như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc”. Phải chăng, vì đã có một thời người ta khóc lóc quá nhiều trong các buổi tiễn đưa “những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt”, nên thơ ca sau cách mạng, khi cần diễn tả những xúc động trong các buổi tiễn đưa, người viết thường dấu đi những giọt nước mắt? Lần đầu tiên trong thơ ca cách mạng có nước mắt của người vợ tiễn đưa chồng: “Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia không dấu nỗi tình yêu cô rực cháy, không che được nước mắt cô đã chảy Những giọt long lanh, nóng bỏng sáng ngời” (Cuộc chia ly màu đỏ) Ngay từ “chia ly” trước đây người ta cũng tránh dùng, Nguyễn Mỹ đã mạnh dạn dùng và dùng rất đúng chỗ nên đã có sức lay động sâu xa. Sự xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ: Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ… đã mang đến cho thơ tình chặng đường này một sinh khí mới. Nam nữ thanh niên trân trọng chép vào sổ tay và đọc đến thuộc lòng “Hương thầm”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Khoảng trời yêu dấu”, “Hương cau”… Xuân Quỳnh là một trong những cây bút trẻ viết khá nhiều thơ tình được bạn đọc ưa thích. Thơ Xuân Quỳnh vừa dào dạt sôi nổi vừa sâu lắng thiết tha: “Những ngày không gặp nhau Sóng bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ.” (Thuyền và sóng) Phải thật hiểu giá trị của tình yêu chân chính, Xuân Quỳnh mới viết được những câu thơ táo bạo như thế. Người đọc không chỉ cảm nhận ở những câu thơ này cái mãnh liệt của tình yêu, hơn thế nữa đó là cái mãnh liệt của tình yêu con người đối với cuộc sống. Những câu thơ này không chỉ làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần mà còn có tác dụng nuôi dưỡng những tình cảm trong sáng. Riêng chung ở đây phải được nhìn dưới góc độ như thế. Nếu chỉ hiểu một cách đơn thuần, máy móc sẽ dễ dẫn đến những hành vi, những phán quyết thô bạo đối với những bài thơ vô tội này. Sự hòa hợp riêng chung là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng của tác phẩm văn học. Nhìn lại những bài thơ tình thành công chúng ta nhận thấy rất rõ điều này. Vươn lên để đạt được sự hài hòa cao độ giữa cái chung và cái riêng phải chăng là một trong những hướng phấn đấu của thơ ca cách mạng hiện nay? Công bằng mà nói mặc dù đạt được một số thành tựu thơ tình của chúng ta so với nền thơ chung của thế giới đang còn có khoảng cách. Thơ tình của chúng ta còn thiếu cái chân thành đằm thắm, cái dịu dàng tài hoa của thơ tình Puskin; cái phức tạp, tinh tế nhiều tầng nhiều lớp của thơ tình Tagor; cái thông minh sắc sảo của thơ tình Gam-da-tốp. Một trong những nguyên nhân làm cho thơ tình chúng ta còn bị hạn chế là do quan niệm về cái chung và cái riêng của chúng ta tuy đã được nâng cao dần, tuy đã được mở rộng dần, nhưng vẫn còn gò bó. Nói chung, thơ tình chúng ta còn để trống nhiều địa hạt, nhiều cung bậc tình cảm. Dù sống trong cuộc sống mới, không phải lúc nào tình yêu cũng diễn ra một cách bằng phẳng, êm ả, nhẹ nhàng, tròn trịa. Thế nhưng, thơ tình chúng ta nhìn chung vẫn còn tròn trịa, êm ả, nhẹ nhàng. Tình yêu trong xã hội mới không phải không còn những cơn sóng gió, không phải không còn những sự phản hội, những tính toán ích kỷ, nhỏ nhen… Thơ tình chúng ta còn né tránh, không dám, hoặc không muốn đụng chạm đến những chuyện rắc rối trong tình yêu. Nhiều bài lắp ráp một cách gượng gạo cái chung và cái riêng đến trở thành công thức đơn điệu khuôn mẫu, sao chép. Quá trình hòa hợp riêng chung trong những bài thơ tình không chỉ chịu sự chi phối của biến cố lịch sử, tình hình chính trị, kinh tế; cơ cấu giai cấp… mà còn chịu sự chi phối của nhận thức chủ quan, của tình cảm riêng tư. Thực tế sáng tác đã chứng minh rằng công của những phụ nữ từng làm trái tim các thi nhân rung động để viết nên những bài thơ tình rất lớn. Đọc tiểu sử của Puskin, Lécmôntốp, Aragông… chúng ta thấy rất rõ điều đó. Song khi tìm hiểu tác giả chúng ta lại rất ít đề cập đến những chuyện tình có thực ấy. Đã đến lúc chúng ta không chỉ phủ nhận việc đề cao quá mức, việc tuyệt đối hóa, xem thơ tình là đề tài duy nhất của thơ ca mà chúng ta còn cần phải uốn nắn kịp thời những định kiến hẹp hòi, sai lệch đối với nó. Thơ tình quyết không chỉ là của riêng của bất cứ xã hội nào, giai cấp nào, thời đại nào mà là của chung nhân loại. Xã hội xã hội chủ nghĩa cũng nên và cần thiết có thơ tình của mình. Chúng ta cần quan tâm hơn nữa đời sống tình cảm của nam nữ thanh niên hiện nay! Sao chúng ta chưa làm tuyển tập chính thức về thơ tình? Sao các nhà thơ chúng ta chưa có một tập thơ nào viết riêng về đề tài tình yêu? Lẽ nào bây giờ vẫn chưa đến lúc? Giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất, Ximônốp vẫn cho xuất bản tập thơ tình “Bên em và xa em”. Nhân dân Xô-viết nhận ra rằng: một tình yêu với nhiều sóng gió nội tâm, những dằn vặt những nhớ mong hy vọng lại rất cần cho họ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trên sách báo Trung ương cũng như địa phương biên tập đã có chú ý gia thêm “một chút thơ tình” song thơ tình chúng ta rõ ràng chưa đáp ứng được nhu cầu công chúng. Tình yêu luôn mới ở mỗi con người, mỗi lứa tuổi, mỗi thời đại, lẽ nào vì người xưa làm nhiều bài thơ tình tuyệt vời rồi thế hệ chúng ta không nên làm thơ tình nữa như một số người quan niệm? Hãy để thơ tình nảy nở một cách tự nhiên, đừng nên quá khắt khe với nó. Chống sự xâm nhập của văn hoá nô dịch, đồi trụy bằng những biện pháp chính quyền không thôi chưa đủ. Cần phải có món ăn tinh thần, thỏa mãn với những đòi hỏi chính đáng của công chúng. Vun trồng được một vườn thơ tình xã hội chủ nghĩa có nhiều “hương sắc” sẽ góp phần làm cho đời sống tâm hồn chúng ta càng thêm phong phú. Sẽ góp phần làm cho cuộc đời chúng ta thêm ý vị, sẽ góp phần gạt bỏ dần thói dung tục, thô lỗ, ích kỷ… trong tình yêu của một số thanh niên hiện nay. Trong “Người thoáng hiện” Tagor kể chuyện một tu sĩ khổ hạnh cố hành xác mình để mong sớm được lên thiên đường. Anh ta hành xác đến nỗi thần thánh đều kinh ngạc. Không ngờ, những năm cuối của cuộc hành xác bỗng một cô hái củi đến và tìm cách hầu hạ anh ta. Khi cuộc hành xác hoàn thành, vị chúa tể của những người bất tử báo cho anh ta biết rằng đã đến ngày chuẩn bị lên thiên đường. Người tu sĩ trả lời: đã lâu tôi không còn muốn lên thiên đường nữa. Qua câu chuyện này, thi sĩ Ấn Độ muốn khẳng định sức mạnh của tình yêu. Với con người, tình yêu là thiên đường nơi trần thế. “Không có gì của con người mà xa lạ với tôi”! Tình yêu là cái vô cùng thân thiết gần gũi của con người lẽ nào lại vắng bóng trong thi ca? Sự có mặt của gần 20 bài thơ tình trong tổng số 186 bài thơ được chọn ở tuyển thơ Việt Nam 1945-1975 của NXB Tác phẩm mới; phần nào chứng minh điều đó. Tagor viết “Tôi đi tìm con nai vàng. Các bạn cứ cười đi, nhưng tôi không vì thế mà kém đeo đuổi nó… Tôi chạy qua đồi, qua thung, tôi lang bạt trong những xứ lạ, tìm con nai vàng” (Người làm vườn tình ái). Con nai vàng - là đề tài tình yêu mà Tagor đeo đuổi. Thơ ca cách mạng chúng ta chẳng dại gì để sổng mất con nai vàng ấy! Vinh 1982, Huế 1984 M.V.H (7/6-84) |
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.