Ảnh: Internet
Trong khi qui hoạch và xây dựng Kinh thành và Hoàng thành vào đầu thế kỷ XIX, các nhà kiến trúc triều Nguyễn đã thiết lập không gian trống này một cách có ý thức: vừa tạo ra một khoảng cách thích hợp giữa mặt tiền Hoàng thành và mặt tiền Kinh thành, hay nói cách khác, giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài, vừa để cho triều đình có nơi để tổ chức một số cuộc đại lễ hoặc làm một số công việc cần thiết. Không thấy triều đình bấy giờ đặt tên riêng chính thức cho quảng trường này. Chỉ thấy Nội các cho biết đây là nơi “Đại duyệt” (大 閲) hoặc nơi “Duyệt binh” (閲兵)(1), tức là khu đất mà triều đình dùng để tổ chức những cuộc diễn tập vào đầu xuân hàng năm của các đơn vị bộ binh, trong đó có sự duyệt khán của vua và các đình thần cao cấp. Trong quyển “Souvenirs de Hué” được viết vào giữa thế kỷ XIX, một chứng nhân lịch sử từng sống tại Huế từ thời Gia Long (1802 - 1819) đến đầu thời Minh Mạng (1820 - 1840) là Michel Đức Chaigneau, đã gọi là khu đất này là “trường diễn binh nhỏ” (le petit champ de Mars, place de manoeuvres) để phân biệt với “trường diễn binh lớn” (grand champ de Mars) bấy giờ tọa lạc tại bờ bắc Sông Hương ở trước mặt Kinh thành (2). Vào khoảng đầu thập niên 1930, khi khảo sát kỹ về các địa danh ở phạm vi Kinh thành Huế, Léopold Cadière đã gọi khu đất trống tại đó là “Hội đồng diễn quân trường” (㑹同演 軍 塲), được dùng bằng tiếng Pháp là “champ de manoeuvre pour les troupes” (3), nghĩa là trường diễn binh của các đơn vị quân đội. Nhưng, nhà nghiên cứu này không cho biết tên gọi chữ Hán ấy đã lấy từ tư liệu nào. Từ khi triều Nguyễn cáo chung vào năm 1945 đến nay, dân chúng địa phương Huế thường gọi nó một cách nôm na và dễ nhớ là “sân Cột Cờ”. Sở dĩ nói là “sân”, vì nó thường được dùng làm sân bóng đá, và gọi là “Cột Cờ”, vì khu đất này nằm sát chân Kỳ Đài, trên đó có cột cờ cao nhất nước (52,81m). Trong những năm gần đây, giới báo chí gọi là khu vực ấy là “Quảng trường Ngọ Môn”, vì nó nằm ở trước mặt Ngọ Môn như trên đã nói. Dùng địa danh này xem ra là thích hợp hơn cả, vì Ngọ Môn cùng với Lầu Ngũ Phụng ở trên đó là một trong những công trình kiến trúc có giá trị nhất của Huế về các mặt lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, và đặc biệt nó là cái khán đài danh dự lý tưởng khi có cuộc lễ diễn ra ở quảng trường trước mặt nó. Mỗi lần tổ chức lễ gì ở đây cũng có đông người tham dự. Lịch sử triều Nguyễn cho thấy rằng các cuộc lễ lớn từng diễn ra ở đây đều mang tính quốc gia, chẳng hạn như Lễ Truyền lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), Lễ Ban sóc (phát lịch), Lễ Duyệt binh hàng năm, Lễ Tứ tuần Đại khánh tiết của vua Khải Định (năm 1924),, Lễ thoái vị của vua Bảo Đại (1945). Tiếp tục sử dụng chức năng truyền thống đó, từ năm 1975 đến nay, chính quyền tỉnh thành sở tại đã tổ chức ở đây một số cuộc lễ long trọng có hàng vạn người tham dự. Ví dụ, gần đây nhất: - Vào ngày 26-3-1999, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức ở Quảng trường Ngọ Môn cuộc Lễ Kỷ niệm 5 năm Quần thể Di tích Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn Hóa Thế giới và mừng 24 năm ngày Huế giải phóng, trong đó có khoảng 1 vạn người tham dự với sự hiện diện của nhiều quan chức Việt Nam và quốc tế. - Vào đêm 8-4-2000, chính quyền tỉnh sở tại đã phối hợp với một số cơ quan văn hóa nghệ thuật ở Trung ương, các địa phương và phía đối với tác Pháp, tổ chức cuộc Lễ Khai mạc Festival Huế 2000 tại quảng trường này, với sự hiện diện của nhiều quan chức cao cấp Việt-Pháp và hơn 2 vạn dân chúng địa phương cùng hàng ngàn du khách nội địa và quốc tế. Mặc dù chức năng chính của Quảng trường Ngọ Môn từ xưa đến nay vẫn như nhau, là dùng để tổ chức những cuộc lễ quan trọng mang tính quốc gia hoặc địa phương, nhưng diện mạo của nó đã có sự thay đổi ít nhiều qua thời gian. Trong bộ sách “Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ”, Nội các Triều Nguyễn cho biết rằnng dưới thời Gia Long và đầu thời Minh Mạng, triều đình đã cho xây dựng ở hai bên quảng trường này 7 dãy nhà gồm 143 gian để che cho nhưng khẩu đại bác được đúc trong giai đoạn mấy chục năm ấy. Những dãy nhà bằng gỗ lợp ngói này đã được gọi tên là “Tả Đại Tướng Quân Xưởng”, “Hữu Đại Tướng Quân Xưởng”, “Thượng Tướng Quân Xưởng”, “Tả Trung Tướng Quân Xưởng”, “Hữu Trung Tướng Quân Xưởng”. Từ “xưởng” ở đây có thể hiểu nghĩa là nhà chứa súng. Đến năm 1832, khi bắt đầu nâng cấp bộ mặt kiến trúc của Hoàng thành, vua Minh Mạng đã cho dời một số dãy nhà súng ấy vào dựng “ở bên tả bên hữu trước cửa Ngọ Môn” (4). Không thấy tư liệu nào cho biết rõ triều đình đã thiết trí bao nhiêu loại đại bác và bao nhiêu khẩu súng ở các dãy nhà súng hai bên Ngọ Môn. Nhưng, vào đầu thời Thành Thái (1889 - 1907), ở hai dãy nhà hai bên Ngọ Môn chỉ còn 9 khẩu “Thần oai Vô địch Thượng tướng quân “được đúc bằng đồng vào những năm 1803 - 1804 dưới thời Gia Long (5) (Về sau, 9 khẩu súng lớn này thường được gọi là Cửu Vị Thần Công). Bấy giờ, ở dãy nhà bên trái, người ta đặt 4 khẩu mang tên “tứ thời”: Xuân, Hạ, Thu, Đông; và ở dãy nhà bên phải là 5 khẩu mang tên “ngũ hành”: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Vào năm 1896, triều đình Thành Thái đã cho di chuyển 5 khẩu bên phải qua đặt chung với 4 khẩu bên trái thành một dãy 9 khẩu. Lúc đó, dãy nhà bên phải trở thành “Mã khái” (Nhà để ngựa), và dãy nhà súng bên trái được gọi là “Pháo xưởng” (6). Đến tháng 6-1917, dưới thời Khải Định, Nam triều đã cho Bộ Công đứng ra tổ chức di chuyển 9 khẩu thần công ấy một lần nữa và lại chia thành 2 nhóm, đặt ở 2 vị trí mới: 4 khẩu Tứ thời đặt ở phía sau cửa Thể Nhân và 5 khẩu Ngũ hành đặt phía sau cửa Quảng Đức, và xây 2 ngôi nhà bằng gỗ lợp ngói để bảo quản chúng (7). Đó chính là vị trí của Cửu Vị Thần Công mà chúng ta đang thấy hiện nay. Hai nhà súng này cho thấy rõ hơn nữa giới hạn chiều đông-tây của Quảng trường Ngọ Môn. Mặt bằng của quảng trường này trong gần 200 năm qua, thường là một bãi đất trống. Một số ảnh chụp vào những thập niên đầu thế kỷ XX cho thấy triều đình có cho trồng một hàng dương liễu (cây filao) ở gần chân Kỳ Đài. Có một trường hợp đặc biệt đã làm cho diện mạo của Quảng trường Ngọ Môn trở nên khác hẳn. Vào năm 1924, để cử hành cuộc lễ Tứ tuần Đại khánh tiết của mình, vua Khải Định đã cho xây dựng tạm thời tại quảng trường này một tòa cung điện ở gần chân Kỳ Đài, mặt hướng về phía Ngọ Môn, và 2 dãy nhà ở 2 bên tòa cung điện, nằm đối diện nhau; đồng thời, chỉnh trang phần mặt sân ở khu vực trung tâm của quảng trường. Bấy giờ, người ta đã bố trí lại các thảm cỏ và đường đi lối lại. Các lối đi được lát gạch Bát Tràng. Nhìn chung, sự xây dựng, tôn tạo và trang hoàng lúc đó dù là tạm thời (trong một giai đoạn rất ngắn khi diễn ra cuộc lễ), nhưng trông thật tươm tất và đẹp đẽ. Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, Quảng trường Ngọ Môn đã được dùng làm một sân bóng đá của địa phương, và thỉnh thoảng có dùng làm nơi tổ chức một số cuộc lễ lớn như trên đã nói. Vào những năm 1994-1995, trong khi tu sửa Kỳ Đài, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho thiết lập một lối đi lát gạch Bát Tràng từ phía bên trái Ngọ Môn đến phía bên trái Kỳ Đài. Hiện nay, nhìn chung, bề mặt của quảng trường này, dù vẫn trống trải, nhưng bị gồ ghề và thảm cỏ mọc không đều, chỗ có chỗ không. Có những nơi, khi trời mưa thì trở thành những vũng nước ứ đọng trong một thời gian. Để phát huy chức năng truyền thống của Quảng trường Ngọ Môn và giá trị các di tích lịch sử và nghệ thuật dùng làm bối cảnh hoành tráng ở chung quanh khu đất trống ấy, đồng thời để đáp ứng cho những nhu cầu thiết thực hiện nay, thiết tưởng cần phải phục hồi, tôn tạo khu vực rộng lớn này, biến nó trở thành một quảng trường quan trọng và lâu dài nhằm tổ chức những cuộc đại lễ hoặc lễ hội có đông người tham dự. Không nên để cho nó được tiếp tục sử dụng làm sân bóng đá như lâu nay. Nên trồng lại thảm cỏ xanh ở khắp quảng trường. Nếu cần thì qui hoạch các đường đi lối lại có lạt gạch Bát Tràng và điểm xuyết thêm những bồn hoa cây cảnh tại những giao điểm của các lối đi dạo. Ngoài ra, cũng cần thực hiện những hạng mục công trình thuộc hạ tầng kỹ thuật, như hệ thống ống cống ngầm để cấp thoát nước và hệ thống điện chiếu sáng để cho du khách có thể dạo chơi vào ban đêm. P.T.A (140/10-00) ---------------------------------------------------------------- (1) Nội các triều nguyễn, “Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ”, nguyên bản chữ Hán, Quyển 155, tờ 6a - 21b. Xem bản dịch của Viện Sử Học, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1993, Tập 9, trang 565 - 577. (2) Michel Đức Chaigneau, “Souvenirs de Hué”, Editions Typhon, Shanghai, 1941, trang 134. (3) Léopold Cadière, “La Citadelle de Hué: onomastique”, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1933, trang 125, lời chú giải số 278. (4) Nội các triều Nguyễn, sách đã dẫn, Quyển 210, tờ 10 ab; bản dịch đã dẫn, Tập 13, trang 158- 159. (5) Quốc Sử Quán triều Nguyễn. “Đại Nam Thực Lục”, bản dịch của Viện Sử Học, Tập III, Nhà Xuất bản Sử Học, Hà Nội, 1963, trang 100. (6) Xem bản đồ “Hoàng Thành Nội” in kèm trong quyển “Kinh Sư” thuộc bộ “Đại Nam nhất Thống Chí” do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn và phát hành vào năm Duy Tân thứ 3. (7) Richard Orband, Éphémérides annamites - BAVH, 1917, trang 305. |
Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).
Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.
BẠCH LÊ QUANG
Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.
HỒ THỊ HỒNG
Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.
(SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô Huế mà khám phá tiếp nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.
PHẠM HUY THÔNG
Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.
LÊ HUY ĐOÀN
Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.
VÕ NGỌC LAN
Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.
LÊ PHƯƠNG LIÊN
…Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG
Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.
THANH TÙNG
Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.
NGUYỄN HUY KHUYẾN
Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.
VÕ NGỌC LAN
Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.
LÊ VĂN LÂN
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.
TRẦN BẠCH ĐẰNG
Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.