Ký sự NGUYỄN ĐĂNG HỰU
Tam Giang rộng lắm ai ơi
Ai về ngoài Sịa nhắn người năm xưa
Ảnh: internet
Về Tam Giang giữa một ngày tháng 6, trước mắt tôi Tam Giang phô bày vẻ bình yên cổ tích toát lên từ xóm chài lúp xúp đầy tiếng cười con trẻ, từ những cụm đò nằm im trong dáng cổ xưa, lặng lẽ và an nhiên như thuở mới khai sinh hình hài. Ghé chợ Đầm trong cái vắng của trưa hè vùng cát, lác đác vài dáng người triêng gánh ra về sau buổi chợ tàn, chỉ còn lại mùi tanh phảng phất cái dư vị của một buổi sáng tấp nập cá tôm. Bên chợ Đầm xưa cũ, tôi mãi miên man về hình ảnh trong đôi mắt tuổi thơ tôi một thời - hình ảnh những mớ cá tôm còn lách tách trên treẹc theo vai những o bán cá chân đất chạy bộ qua quãng đồng dài để đến chợ làng trong những buổi sớm mai.
Từ lâu phá Tam Giang không chỉ được biết đến bởi nhiều sản vật cá tôm mà còn bởi vẻ đẹp bình yên và hùng vĩ của một vùng trời nước mênh mông. Nhưng ẩn sau vẻ bình yên ấy là cuộc sống đầy vất vả lo toan của hàng nghìn con người đang hằng ngày mưu sinh bằng nghề chài lưới.
Nghề chài trên phá Tam Giang không biết có từ bao giờ, những người làm nghề đầu tiên là ai thì đến nay chưa thấy tư liệu thành văn nào ghi chép. Nhưng đến giữa thế kỷ XVI thì nghề chài lưới cùng với một số địa danh làng xã từng được khai thác vùng đầm phá Tam Giang xưa đã được nhắc đến trong Ô châu cận lục của Dương Văn An: “Bác Vọng đóng đăng bắt cá, Thủ Lễ đánh cá bằng lưới giăng”. Những dấu tích về vùng sông nước ấy vẫn còn lưu lại trong những tên giáp, tên làng ven đầm phá của huyện Quảng Điền như: Lai Hà, Hà Trung, Hà Bạc, Ngư Mỹ Thạnh, Hà Lạc, Hà Đồ...
Ngược dòng lịch sử, có lẽ những cư dân Champa tiền trú vốn mang sẵn trong mình cảm quan về biển thì nghề chài lưới chắc cũng đã có mặt cùng họ trên vùng đầm phá này trước khi người Việt gắn cho nó những danh xưng như Hạc Hải, Tam Giang. Rồi trong hành trình Nam tiến, trên vùng “Ô châu ác địa” những lưu dân Việt ra đi từ vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã vốn không xa lạ với nghề chài lưới sông hồ cũng có thể đã khai thác cá tôm trìa rạm ven phá để sinh sống nơi vùng đất mới.
Mang theo câu hỏi về nguồn gốc nghề chài của từng vùng, chúng tôi từ Sịa ngược lên phía Bắc theo con đường thiên lý có từ thuở Trần-Hồ ven phá Tam Giang. Cụ Văn Diễn, một lão ngư có thâm niên chài lưới lâu nhất vùng Lai Hà - xã Quảng Thái, nguời ngư phủ già nhưng vẫn còn quắc thước vuốt chòm râu bạc kể chúng tôi nghe những câu chuyện về nghề chài, về thuở khẩn hoang vùng nước lợ của làng: “Vùng đầm phá ngoài tê do ông họ Nguyễn người làng Vu Lai khai canh, nhưng khởi thủy của nghề ni là do một ông họ Phan tên Điền ở mô dưới cửa Tư Hiền lên, thấy vùng ni nhiều tôm cá nên ở lại rồi bày vẻ cho dân làng làm nghề, đời ni qua đời nọ tiếp nối đến chừ”. Chuyện ông Nguyễn Phúc Làng có công khai khẩn phường trúc đăng Hà Bạc thì có văn bản ghi tường tận nhưng tiếc thay câu chuyện về ông tổ nghề chài trên vùng đầm phá làng Lai Hà chỉ còn lại bằng những lời truyền ngôn, tuy có thể không xác thực về lịch sử, nhưng dẫu sao cũng đã trở thành một phần trong đời sống tâm linh của người bản quán. Ngày nay, ngư dân vẫn lập miếu thờ, hằng năm cứ đến 25 tháng Chạp dân “phường sáo” lại tổ chức cúng tế gọi là lễ “chạp nè” để tưởng vọng và nhớ ơn tổ nghề chài của vùng đầm Nịu - Lai Hà.
*
Dọc về hướng nam phá Tam Giang, ngư dân vùng Hà Lạc, Hà Đồ cũng có những truyền thuyết về lai lịch vùng đầm phá và nghề chài của riêng mình, đó là truyền thuyết về Bà Tơ. Chuyện kể rằng, xưa có một người đàn bà sống một mình trên một chuyến thuyền chài ở vùng nước lợ này. Trong một chuyến bôn tẩu gấp gáp của chúa Tiên trên phá Tam Giang, thuyền của chúa bị đứt quai chèo, bà gặp và dâng lên chúa một thúng tơ sống để làm lại quai chèo, về sau chúa ban thưởng cho bà chiếm hữu vùng đầm phá thượng tự Lại Mã hạ chí Côn Nôn. Từ đó dân làng Bác Vọng của bà ra định cư, làm nghề đăng sáo để khai thác cá tôm lập thành hai làng mới là Hà Đồ, Hà Lạc. Ngư dân lập miếu thờ ký thác sự hàm ơn và hằng năm đến ngày húy nhật của bà những người làm nghề chài lưới vùng này đều tổ chức lễ cầu ngư, mong được thuận mùa tôm cá.
Hình thức đánh bắt của nghề chài trên phá Tam Giang nhiều và đa dạng như chính nguồn sản vật mà vùng đầm phá này dâng tặng cho con người. Tùy vào thủy vực và địa hình, tùy từng thời điểm,... mà người làm chài khi thì đóng đăng đặt sáo, đặt lừ, khi giăng lưới, đóng đáy, bỏ chuôm hay kẹp trìa, cào hến... Mỗi vùng lại tập trung một số hình thức chài lưới đặc trưng như: nò sáo thường tập trung nhiều ở Đầm Sam - An Truyền, Vinh Giang, Điền Hải, Quảng Lợi, Quảng Phước...; Nghề đáy tập trung nhiều ở cửa lạch Thuận An; chuôm, dạy xuất hiện nhiều ở vùng nước nông và địa hình bằng như dải Tây Bắc phá ở Quảng Điền; vùng đầm gần cửa sông Ô Lâu thì ngư dân chuyên dũi tép, cất rớ, đặt nò bắt cá nước ngọt; vùng Quảng Công, Quảng Ngạn chuyên bắt trìa, đặt lừ, bủa lưới; vùng Mai Dương, Hà Đồ chuyên cào hến, bỏ chuôm...
Cùng bác Nguyễn Hiền rẽ sóng trên Tam Giang hiền hòa đầy gió, bác kể về những điều mà một người làm chài nước lợ phải biết: “Nghề nỉ phải am tường thủy triều, con nước, biết tập tính của từng loại cá loại tôm rồi phải biết nhìn gió nhìn trời khi nớ làm nghề mới có. Nhưng sóng nước Tam Giang luôn mang trong mình nhiều điều bí ẩn mà ngay chính những ngư phủ sành sõi nhất cũng không tài nào am tường hết. Nên dẫu đã thâm niên trong nghề nhưng người ngư phủ này vẫn có khi “tôm cả đầy bụng ghe, khi lác đác vài con cho có lệ”.
Lòng nước Tam Giang là nơi nuôi sống rất nhiều loài thủy sản bởi tính đa dạng sinh học đặc biệt, vì thế ngư dân chài lưới thường đánh bắt được nhiều loài tôm cá có giá trị, những sản vật đặc trưng của vùng đầm phá Thừa Thiên. Sản phẩm quanh năm thường gặp của nghề chài lưới ở vùng phá Tam Giang là các loại cá như: cá sơn, cá liệt, cá đôi, cá bông, cá móm,... Đây là những loại cá nước lợ điển hình mà nghề chài ở các vùng sông nước khác không dễ đánh bắt được. Tùy thuộc vào độ mặn, mùa khô hay mùa mưa... mà ngư dân Tam Giang còn đánh bắt thêm nhiều loại cá từ biển vào hay từ sông về. Từ tháng 2 đến tháng 8 khi mùa khô đến, độ mặn nước phá Tam Giang được nâng cao thì sản vật của nghề chài có thêm nhiều loại cá biển có đặc tính hẹp muối như: cá đuối, cá trích, cá cơm, cá nhám... đánh bắt được ở các vùng phá gần cửa biển. Từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, là mùa mưa ở vùng Huế, nước vùng bờ Tây - Bắc Tam Giang bị ngọt hóa, đây cũng là thời điểm ngư dân đánh bắt cá nước ngọt như cá diếc, cá Ngạnh... tụ tập về ở các cửa sông.
Bên cạnh các loại cá, thì tôm cũng là sản phẩm phổ biến của nghề chài trên phá Tam Giang. Những loài tôm cọng, tôm càng, tôm rằn, tôm sú, tôm đất mà ngư dân đánh bắt từ đầm phá luôn được ưa chuộng trên mâm cơm của người Huế. Ngoài những mùa đánh bắt cá tôm thông thường, cứ vào độ sau lũ tiểu mãn đến tết Đoan Ngọ người làm nghề chài vùng Tam Giang lại vào mùa bắt rạm, dậm trìa.
Cùng với cá, tôm, trìa, rạm... thì mắm cũng là một sản phẩm khó quên của nghề chài Tam Giang. Ngay từ thế kỷ XVI “mắm cá ong là thổ sản của các đầm phá Thanh Lam, An Lưu huyện Tư Vinh, ở phá Tam Chế huyện Đan Điền là thứ nhì” (Ô châu cận lục) đã được coi là sản vật có tiếng của đất Ô Châu.
Có thể nói, những sản phẩm của nghề chài lưới trên phá Tam Giang làm đa dạng thêm nguồn sản vật trong cơ cấu bữa ăn của người dân Huế, góp phần tô điểm thêm và làm nên diện mạo cho vùng văn hóa ẩm thực xứ Huế.
*
Nếu sản vật đánh bắt cho thấy được cái hào phóng của Tam Giang thì cuộc sống của những ngư dân lại cho ta một bức tranh khác về nghề chài lưới.
Xưa, phá Tam Giang lắm cá nhiều tôm thì nay cái thuở “hễ xuống ghe là tôm đầy cá nậy” chỉ còn câu chuyện của một thời quá vãng. Hình thức đánh bắt tận thu và hủy diệt của không ít ngư dân đã làm cho phá Tam Giang ngày một nghèo thêm sản vật. Cuộc sống của người làm nghề chài lưới cũng theo đó không còn dễ dàng như trước. Theo ghe đặt lừ cùng người ngư dân trẻ vùng Cư Lạc - anh Nguyễn Nhơn - người đàn ông với dáng người mảnh khảnh phong trần, chiếc áo trắng cũ đã ngả ố nối trên màu da bánh mật cứng cáp. Anh thoăn thoắt đôi tay vừa chèo vừa đặt từng đốt lừ đều đặn, nhịp nhàng và bộc bạch về đời sống của người làm nghề: “Tụi tui ra riêng đã gần chục năm mà vẫn chưa xây được cái nhà. Hai vợ chồng làm nghề ni chỉ đủ nuôi cơm 3 đứa con qua ngày”. Nhìn cái chòi tre nứa liêu xiêu ven mặt nước của hai vợ chồng anh, chúng tôi mới cảm nhận được cuộc mưu sinh đầy cay nghiệt của nghề chài.
Cuộc sống của ngư dân Tam Giang cứ tháng ngày theo đuôi con cá con tôm để mưu sinh cùng sông nước. Đến thôn chài Ngư Mỹ Thạnh nói chuyện với ngư chài Trần Hồng, tuổi đời anh chưa quá 50 mà đã có 9 mặt con. Thuở nhỏ sống lênh đênh với gia đình trên sóng nước, lên 6 đã biết bơi rành rọt như con cá con tôm vùng đầm. Lớn lên lập gia thất, con cái đầy đò mà chẳng đứa nào biết trường biết lớp, cứ cùng chiếc thuyền chài nay đây mai đó. Bằng giọng sang sảng vùng chài, anh kể: “Nghề cá mú bữa ni khó sống lắm chú ơi. Làm nghề ni cực, lại không có tương lai nên mấy đứa con tui hắn vô tận Sài Gòn, Bình Dương làm công nhân hết. Ba năm ni Nhà nước cấp cho cái nhà để định cư, mưa gió đỡ lo chứ ở trên nôốc hoài thì không biết khi mô mới khá”.
Nguồn đánh bắt trên Tam Giang đang cạn kiệt, người làm nghề chài lưới đánh bắt tự nhiên quanh năm vật lộn với sóng nước nhưng vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo. Những câu chuyện của cụ Diễn về cách đánh bắt chừng mực của ngư dân xưa như: không bắt cá con và cá mẹ đang nuôi con; từ Tết đến mồng 7 tháng Giêng thì không được ra phá làm nghề, khi làng hạ nêu mới được đánh bắt trở lại để khỏi bị “trách quở” bởi thần Đầm. Đằng sau những chuyên nghề, những quan niệm ấy là bài học vẫn còn nguyên giá trị về sự kiêng nể và tôn trọng tài nguyên của người làm nghề chài lưới.
Thuở xưa, những dân chài có tiền của mới có điều kiện làm nghề đăng sáo gọi là “đại nghệ”, còn đa số dân nghèo đều phải kiếm sống bằng những hình thức đánh bắt di động, gọi là “tiểu nghệ”. Ngày nay cũng không khác hơn, đa số dân cư nghèo sông ven phá Tam Giang sống bằng nghề đánh bắt tự nhiên, ít người đủ điều kiện nuôi tôm sú. Vì thế nghề chài gắn bó mật thiết với cuộc sống và số phận của không ít người đang hằng ngày mưu sinh trên vùng đầm phá. Có những phận người một đời chỉ quẩn quanh với phá, có người sinh trên nước rồi chết vùi trong nước cùng nghề; cũng có người sống được và khá giả với nghề nhưng cũng có người đành bỏ ghe nò lưới dũi cầu thực nơi phương xa.
Phóng tầm mắt từ bờ, xa xa là cảnh hàng chục chiếc nón nhấp nhô trên sóng nước của những ngư dân đang mò trìa. Trìa là một loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống ở vùng nước lợ, trìa thường và trìa mỡ là hai loại trìa thường gặp ở vùng Tam Giang. Không biết từ thuở nào, con trìa đã có mặt trong những bữa ăn đạm bạc nơi thôn dã rồi “lên Kinh”, “vô Nội” hiện diện trên mâm cơm nơi cao sang, cung cấm. Để rồi loài thủy sản tưởng như rất đỗi tầm thường ấy của Tam Giang lại trở thành một trong những biểu tượng cho sản vật của non sông gấm vóc, được chạm khắc trang trọng lên Thuần Đỉnh, hiện diện nơi Thế Miếu uy nghi. Trìa được coi là một thứ đặc sản của vùng đầm phá, món trìa ngon và được nhiều thực khách ưa chuộng nhưng nghề mò trìa lại là hình thức đánh bắt vất vả nhất của nghề chài lưới Tam Giang. Cứ vào thời điểm con nước ròng là ngư dân Tam Giang xuống nước, đội nón, kéo ghe ra phá để bắt trìa. Người mò trìa phải luôn ngâm mình dưới nước bất kể nắng mưa. Đôi chân trần quờ quạng nơi đáy cát im lìm không ngại gai nhọn, mảnh chai, mảnh sành để lần tìm và kẹp từng con trìa như người nông dân chắt chiu luợm lặt từng củ khoai, hạt lúa. Người mò trìa lần từ vùng nước cạn cho đến vùng nước sâu tận miệng. Thế nên, ngư dân thường tự nói về nghề trìa của mình bằng những câu luôn vần thuận miệng đầy chua chát: Hả mỏ lên trời quờ qua quờ lại, ai ơi chớ dại đeo lấy nghề trìa. Chua xót thế nhưng vẫn phải bám lấy nghề, bởi đó là áo cơm, là đường mưu sinh không thể khác giữa sóng nước Tam Giang. Và trên phá Tam Giang này, cũng có những phận người lầm lũi, nhỏ bé như chính phận hến, phận trìa. Bà Hoàng Thị Bê ở thôn Cư Lạc, xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền đã bước qua cái tuổi 72, đầu bạc lưng khòm và thân hình gầy lọm nhưng phải mò trìa kiếm sống qua ngày. Mẹ cha mất từ thuở nhỏ, không chồng bà kiếm con cho đỡ cô quạnh. Người con trai duy nhất lớn lên, khổ quá bỏ nghề chài lên vùng núi rừng A Lưới đãi vàng để mong một cuộc sống khá hơn. Ngày con ra đi, bà níu áo tỉ tê: “Đừng đi con ơi, không tôm cá thì trìa độn rau hai mạ con mình cũng sống được qua ngày”. Mấy năm sau, nghe đâu người con chết vì sốt rét; một mình bà lại lủi thủi với sóng nước Tam Giang.
Hoàng hôn trên bến đò Cồn Tộc đã xuống từ lúc nào, mặt trời đã khuất dạng sau cánh đồng ven phá, nước Tam Giang phản chiếu một màu trắng xám từ chút ánh dương yếu ớt cuối ngày. Xa xa là những dáng người mệt mỏi, đang ì ạch vác những bao tải trìa chầm chậm tiến vào cầu tàu để bán cho thương lái. Sau cái mệt mỏi cuối ngày, họ vội bán nhanh rồi cầm lấy những đồng tiền ít ỏi quay lưng với mặt nước ngoài kia và trở về nhà trong cái nhá nhem chập choạng tối để hôm sau lại tiếp tục một vòng quay mưu sinh mới với nghề chài.
N.Đ.H
(SDB11/12-13)
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.
TÔN THẤT BÌNH
Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.
CAO THỊ THƠM QUANG
Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
TRẦN VĂN DŨNG
Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.
TRẦN VĂN DŨNG
Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.
THANH HOA - LÊ HUỆ
Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.
VÕ QUANG YẾN
Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.
“Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế, từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.
PHẠM HỮU THU
Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.
LÊ QUANG THÁI
Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết.
LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.
ĐỖ XUÂN CẨM
TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI
Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.
NGUYỄN XUÂN HOA
Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.