Quăng chài trên Tam Giang

14:02 07/01/2014

Ký sự NGUYỄN ĐĂNG HỰU

Tam Giang rộng lắm ai ơi
Ai về ngoài Sịa nhắn người năm xưa

Ảnh: internet

Về Tam Giang giữa một ngày tháng 6, trước mắt tôi Tam Giang phô bày vẻ bình yên cổ tích toát lên từ xóm chài lúp xúp đầy tiếng cười con trẻ, từ những cụm đò nằm im trong dáng cổ xưa, lặng lẽ và an nhiên như thuở mới khai sinh hình hài. Ghé chợ Đầm trong cái vắng của trưa hè vùng cát, lác đác vài dáng người triêng gánh ra về sau buổi chợ tàn, chỉ còn lại mùi tanh phảng phất cái dư vị của một buổi sáng tấp nập cá tôm. Bên chợ Đầm xưa cũ, tôi mãi miên man về hình ảnh trong đôi mắt tuổi thơ tôi một thời - hình ảnh những mớ cá tôm còn lách tách trên treẹc theo vai những o bán cá chân đất chạy bộ qua quãng đồng dài để đến chợ làng trong những buổi sớm mai.

Từ lâu phá Tam Giang không chỉ được biết đến bởi nhiều sản vật cá tôm mà còn bởi vẻ đẹp bình yên và hùng vĩ của một vùng trời nước mênh mông. Nhưng ẩn sau vẻ bình yên ấy là cuộc sống đầy vất vả lo toan của hàng nghìn con người đang hằng ngày mưu sinh bằng nghề chài lưới.

Nghề chài trên phá Tam Giang không biết có từ bao giờ, những người làm nghề đầu tiên là ai thì đến nay chưa thấy tư liệu thành văn nào ghi chép. Nhưng đến giữa thế kỷ XVI thì nghề chài lưới cùng với một số địa danh làng xã từng được khai thác vùng đầm phá Tam Giang xưa đã được nhắc đến trong Ô châu cận lục của Dương Văn An: “Bác Vọng đóng đăng bắt cá, Thủ Lễ đánh cá bằng lưới giăng”. Những dấu tích về vùng sông nước ấy vẫn còn lưu lại trong những tên giáp, tên làng ven đầm phá của huyện Quảng Điền như: Lai Hà, Hà Trung, Hà Bạc, Ngư Mỹ Thạnh, Hà Lạc, Hà Đồ...

Ngược dòng lịch sử, có lẽ những cư dân Champa tiền trú vốn mang sẵn trong mình cảm quan về biển thì nghề chài lưới chắc cũng đã có mặt cùng họ trên vùng đầm phá này trước khi người Việt gắn cho nó những danh xưng như Hạc Hải, Tam Giang. Rồi trong hành trình Nam tiến, trên vùng “Ô châu ác địa” những lưu dân Việt ra đi từ vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã vốn không xa lạ với nghề chài lưới sông hồ cũng có thể đã khai thác cá tôm trìa rạm ven phá để sinh sống nơi vùng đất mới.

Mang theo câu hỏi về nguồn gốc nghề chài của từng vùng, chúng tôi từ Sịa ngược lên phía Bắc theo con đường thiên lý có từ thuở Trần-Hồ ven phá Tam Giang. Cụ Văn Diễn, một lão ngư có thâm niên chài lưới lâu nhất vùng Lai Hà - xã Quảng Thái, nguời ngư phủ già nhưng vẫn còn quắc thước vuốt chòm râu bạc kể chúng tôi nghe những câu chuyện về nghề chài, về thuở khẩn hoang vùng nước lợ của làng: “Vùng đầm phá ngoài tê do ông họ Nguyễn người làng Vu Lai khai canh, nhưng khởi thủy của nghề ni là do một ông họ Phan tên Điền ở mô dưới cửa Tư Hiền lên, thấy vùng ni nhiều tôm cá nên ở lại rồi bày vẻ cho dân làng làm nghề, đời ni qua đời nọ tiếp nối đến chừ”. Chuyện ông Nguyễn Phúc Làng có công khai khẩn phường trúc đăng Hà Bạc thì có văn bản ghi tường tận nhưng tiếc thay câu chuyện về ông tổ nghề chài trên vùng đầm phá làng Lai Hà chỉ còn lại bằng những lời truyền ngôn, tuy có thể không xác thực về lịch sử, nhưng dẫu sao cũng đã trở thành một phần trong đời sống tâm linh của người bản quán. Ngày nay, ngư dân vẫn lập miếu thờ, hằng năm cứ đến 25 tháng Chạp dân “phường sáo” lại tổ chức cúng tế gọi là lễ “chạp nè” để tưởng vọng và nhớ ơn tổ nghề chài của vùng đầm Nịu - Lai Hà.

*

Dọc về hướng nam phá Tam Giang, ngư dân vùng Hà Lạc, Hà Đồ cũng có những truyền thuyết về lai lịch vùng đầm phá và nghề chài của riêng mình, đó là truyền thuyết về Bà Tơ. Chuyện kể rằng, xưa có một người đàn bà sống một mình trên một chuyến thuyền chài ở vùng nước lợ này. Trong một chuyến bôn tẩu gấp gáp của chúa Tiên trên phá Tam Giang, thuyền của chúa bị đứt quai chèo, bà gặp và dâng lên chúa một thúng tơ sống để làm lại quai chèo, về sau chúa ban thưởng cho bà chiếm hữu vùng đầm phá thượng tự Lại Mã hạ chí Côn Nôn. Từ đó dân làng Bác Vọng của bà ra định cư, làm nghề đăng sáo để khai thác cá tôm lập thành hai làng mới là Hà Đồ, Hà Lạc. Ngư dân lập miếu thờ ký thác sự hàm ơn và hằng năm đến ngày húy nhật của bà những người làm nghề chài lưới vùng này đều tổ chức lễ cầu ngư, mong được thuận mùa tôm cá.

Hình thức đánh bắt của nghề chài trên phá Tam Giang nhiều và đa dạng như chính nguồn sản vật mà vùng đầm phá này dâng tặng cho con người. Tùy vào thủy vực và địa hình, tùy từng thời điểm,... mà người làm chài khi thì đóng đăng đặt sáo, đặt lừ, khi giăng lưới, đóng đáy, bỏ chuôm hay kẹp trìa, cào hến... Mỗi vùng lại tập trung một số hình thức chài lưới đặc trưng như: nò sáo thường tập trung nhiều ở Đầm Sam - An Truyền, Vinh Giang, Điền Hải, Quảng Lợi, Quảng Phước...; Nghề đáy tập trung nhiều ở cửa lạch Thuận An; chuôm, dạy xuất hiện nhiều ở vùng nước nông và địa hình bằng như dải Tây Bắc phá ở Quảng Điền; vùng đầm gần cửa sông Ô Lâu thì ngư dân chuyên dũi tép, cất rớ, đặt nò bắt cá nước ngọt; vùng Quảng Công, Quảng Ngạn chuyên bắt trìa, đặt lừ, bủa lưới; vùng Mai Dương, Hà Đồ chuyên cào hến, bỏ chuôm...

Cùng bác Nguyễn Hiền rẽ sóng trên Tam Giang hiền hòa đầy gió, bác kể về những điều mà một người làm chài nước lợ phải biết: “Nghề nỉ phải am tường thủy triều, con nước, biết tập tính của từng loại cá loại tôm rồi phải biết nhìn gió nhìn trời khi nớ làm nghề mới có. Nhưng sóng nước Tam Giang luôn mang trong mình nhiều điều bí ẩn mà ngay chính những ngư phủ sành sõi nhất cũng không tài nào am tường hết. Nên dẫu đã thâm niên trong nghề nhưng người ngư phủ này vẫn có khi “tôm cả đầy bụng ghe, khi lác đác vài con cho có lệ”.

Lòng nước Tam Giang là nơi nuôi sống rất nhiều loài thủy sản bởi tính đa dạng sinh học đặc biệt, vì thế ngư dân chài lưới thường đánh bắt được nhiều loài tôm cá có giá trị, những sản vật đặc trưng của vùng đầm phá Thừa Thiên. Sản phẩm quanh năm thường gặp của nghề chài lưới ở vùng phá Tam Giang là các loại cá như: cá sơn, cá liệt, cá đôi, cá bông, cá móm,... Đây là những loại cá nước lợ điển hình mà nghề chài ở các vùng sông nước khác không dễ đánh bắt được. Tùy thuộc vào độ mặn, mùa khô hay mùa mưa... mà ngư dân Tam Giang còn đánh bắt thêm nhiều loại cá từ biển vào hay từ sông về. Từ tháng 2 đến tháng 8 khi mùa khô đến, độ mặn nước phá Tam Giang được nâng cao thì sản vật của nghề chài có thêm nhiều loại cá biển có đặc tính hẹp muối như: cá đuối, cá trích, cá cơm, cá nhám... đánh bắt được ở các vùng phá gần cửa biển. Từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, là mùa mưa ở vùng Huế, nước vùng bờ Tây - Bắc Tam Giang bị ngọt hóa, đây cũng là thời điểm ngư dân đánh bắt cá nước ngọt như cá diếc, cá Ngạnh... tụ tập về ở các cửa sông.

Bên cạnh các loại cá, thì tôm cũng là sản phẩm phổ biến của nghề chài trên phá Tam Giang. Những loài tôm cọng, tôm càng, tôm rằn, tôm sú, tôm đất mà ngư dân đánh bắt từ đầm phá luôn được ưa chuộng trên mâm cơm của người Huế. Ngoài những mùa đánh bắt cá tôm thông thường, cứ vào độ sau lũ tiểu mãn đến tết Đoan Ngọ người làm nghề chài vùng Tam Giang lại vào mùa bắt rạm, dậm trìa.

Cùng với cá, tôm, trìa, rạm... thì mắm cũng là một sản phẩm khó quên của nghề chài Tam Giang. Ngay từ thế kỷ XVI “mắm cá ong là thổ sản của các đầm phá Thanh Lam, An Lưu huyện Tư Vinh, ở phá Tam Chế huyện Đan Điền là thứ nhì” (Ô châu cận lục) đã được coi là sản vật có tiếng của đất Ô Châu.

Có thể nói, những sản phẩm của nghề chài lưới trên phá Tam Giang làm đa dạng thêm nguồn sản vật trong cơ cấu bữa ăn của người dân Huế, góp phần tô điểm thêm và làm nên diện mạo cho vùng văn hóa ẩm thực xứ Huế.

*

Nếu sản vật đánh bắt cho thấy được cái hào phóng của Tam Giang thì cuộc sống của những ngư dân lại cho ta một bức tranh khác về nghề chài lưới.

Xưa, phá Tam Giang lắm cá nhiều tôm thì nay cái thuở “hễ xuống ghe là tôm đầy cá nậy” chỉ còn câu chuyện của một thời quá vãng. Hình thức đánh bắt tận thu và hủy diệt của không ít ngư dân đã làm cho phá Tam Giang ngày một nghèo thêm sản vật. Cuộc sống của người làm nghề chài lưới cũng theo đó không còn dễ dàng như trước. Theo ghe đặt lừ cùng người ngư dân trẻ vùng Cư Lạc - anh Nguyễn Nhơn - người đàn ông với dáng người mảnh khảnh phong trần, chiếc áo trắng cũ đã ngả ố nối trên màu da bánh mật cứng cáp. Anh thoăn thoắt đôi tay vừa chèo vừa đặt từng đốt lừ đều đặn, nhịp nhàng và bộc bạch về đời sống của người làm nghề: “Tụi tui ra riêng đã gần chục năm mà vẫn chưa xây được cái nhà. Hai vợ chồng làm nghề ni chỉ đủ nuôi cơm 3 đứa con qua ngày”. Nhìn cái chòi tre nứa liêu xiêu ven mặt nước của hai vợ chồng anh, chúng tôi mới cảm nhận được cuộc mưu sinh đầy cay nghiệt của nghề chài.

Cuộc sống của ngư dân Tam Giang cứ tháng ngày theo đuôi con cá con tôm để mưu sinh cùng sông nước. Đến thôn chài Ngư Mỹ Thạnh nói chuyện với ngư chài Trần Hồng, tuổi đời anh chưa quá 50 mà đã có 9 mặt con. Thuở nhỏ sống lênh đênh với gia đình trên sóng nước, lên 6 đã biết bơi rành rọt như con cá con tôm vùng đầm. Lớn lên lập gia thất, con cái đầy đò mà chẳng đứa nào biết trường biết lớp, cứ cùng chiếc thuyền chài nay đây mai đó. Bằng giọng sang sảng vùng chài, anh kể: “Nghề cá mú bữa ni khó sống lắm chú ơi. Làm nghề ni cực, lại không có tương lai nên mấy đứa con tui hắn vô tận Sài Gòn, Bình Dương làm công nhân hết. Ba năm ni Nhà nước cấp cho cái nhà để định cư, mưa gió đỡ lo chứ ở trên nôốc hoài thì không biết khi mô mới khá”.

Nguồn đánh bắt trên Tam Giang đang cạn kiệt, người làm nghề chài lưới đánh bắt tự nhiên quanh năm vật lộn với sóng nước nhưng vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo. Những câu chuyện của cụ Diễn về cách đánh bắt chừng mực của ngư dân xưa như: không bắt cá con và cá mẹ đang nuôi con; từ Tết đến mồng 7 tháng Giêng thì không được ra phá làm nghề, khi làng hạ nêu mới được đánh bắt trở lại để khỏi bị “trách quở” bởi thần Đầm. Đằng sau những chuyên nghề, những quan niệm ấy là bài học vẫn còn nguyên giá trị về sự kiêng nể và tôn trọng tài nguyên của người làm nghề chài lưới.

Thuở xưa, những dân chài có tiền của mới có điều kiện làm nghề đăng sáo gọi là “đại nghệ”, còn đa số dân nghèo đều phải kiếm sống bằng những hình thức đánh bắt di động, gọi là “tiểu nghệ”. Ngày nay cũng không khác hơn, đa số dân cư nghèo sông ven phá Tam Giang sống bằng nghề đánh bắt tự nhiên, ít người đủ điều kiện nuôi tôm sú. Vì thế nghề chài gắn bó mật thiết với cuộc sống và số phận của không ít người đang hằng ngày mưu sinh trên vùng đầm phá. Có những phận người một đời chỉ quẩn quanh với phá, có người sinh trên nước rồi chết vùi trong nước cùng nghề; cũng có người sống được và khá giả với nghề nhưng cũng có người đành bỏ ghe nò lưới dũi cầu thực nơi phương xa.

Phóng tầm mắt từ bờ, xa xa là cảnh hàng chục chiếc nón nhấp nhô trên sóng nước của những ngư dân đang mò trìa. Trìa là một loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống ở vùng nước lợ, trìa thường và trìa mỡ là hai loại trìa thường gặp ở vùng Tam Giang. Không biết từ thuở nào, con trìa đã có mặt trong những bữa ăn đạm bạc nơi thôn dã rồi “lên Kinh”, “vô Nội” hiện diện trên mâm cơm nơi cao sang, cung cấm. Để rồi loài thủy sản tưởng như rất đỗi tầm thường ấy của Tam Giang lại trở thành một trong những biểu tượng cho sản vật của non sông gấm vóc, được chạm khắc trang trọng lên Thuần Đỉnh, hiện diện nơi Thế Miếu uy nghi. Trìa được coi là một thứ đặc sản của vùng đầm phá, món trìa ngon và được nhiều thực khách ưa chuộng nhưng nghề mò trìa lại là hình thức đánh bắt vất vả nhất của nghề chài lưới Tam Giang. Cứ vào thời điểm con nước ròng là ngư dân Tam Giang xuống nước, đội nón, kéo ghe ra phá để bắt trìa. Người mò trìa phải luôn ngâm mình dưới nước bất kể nắng mưa. Đôi chân trần quờ quạng nơi đáy cát im lìm không ngại gai nhọn, mảnh chai, mảnh sành để lần tìm và kẹp từng con trìa như người nông dân chắt chiu luợm lặt từng củ khoai, hạt lúa. Người mò trìa lần từ vùng nước cạn cho đến vùng nước sâu tận miệng. Thế nên, ngư dân thường tự nói về nghề trìa của mình bằng những câu luôn vần thuận miệng đầy chua chát: Hả mỏ lên trời quờ qua quờ lại, ai ơi chớ dại đeo lấy nghề trìa. Chua xót thế nhưng vẫn phải bám lấy nghề, bởi đó là áo cơm, là đường mưu sinh không thể khác giữa sóng nước Tam Giang. Và trên phá Tam Giang này, cũng có những phận người lầm lũi, nhỏ bé như chính phận hến, phận trìa. Bà Hoàng Thị Bê ở thôn Cư Lạc, xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền đã bước qua cái tuổi 72, đầu bạc lưng khòm và thân hình gầy lọm nhưng phải mò trìa kiếm sống qua ngày. Mẹ cha mất từ thuở nhỏ, không chồng bà kiếm con cho đỡ cô quạnh. Người con trai duy nhất lớn lên, khổ quá bỏ nghề chài lên vùng núi rừng A Lưới đãi vàng để mong một cuộc sống khá hơn. Ngày con ra đi, bà níu áo tỉ tê: “Đừng đi con ơi, không tôm cá thì trìa độn rau hai mạ con mình cũng sống được qua ngày”. Mấy năm sau, nghe đâu người con chết vì sốt rét; một mình bà lại lủi thủi với sóng nước Tam Giang.

Hoàng hôn trên bến đò Cồn Tộc đã xuống từ lúc nào, mặt trời đã khuất dạng sau cánh đồng ven phá, nước Tam Giang phản chiếu một màu trắng xám từ chút ánh dương yếu ớt cuối ngày. Xa xa là những dáng người mệt mỏi, đang ì ạch vác những bao tải trìa chầm chậm tiến vào cầu tàu để bán cho thương lái. Sau cái mệt mỏi cuối ngày, họ vội bán nhanh rồi cầm lấy những đồng tiền ít ỏi quay lưng với mặt nước ngoài kia và trở về nhà trong cái nhá nhem chập choạng tối để hôm sau lại tiếp tục một vòng quay mưu sinh mới với nghề chài.

N.Đ.H
(SDB11/12-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!