Hàn Mặc Tử và những người tình trong thơ - Ảnh: Internet
Thuở nhỏ học ở Quãng Ngãi, khi cha chết, mẹ dọn về Qui Nhơn, ở đây Hàn Mặc Tử tập làm thơ Đường luật (lúc 16 tuổi) lấy bút hiệu là Minh Duệ Thị. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba, ra Huế học tại trường dòng Pellerin. Hàn Mặc Tử đăng thơ trên báo Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn với bút hiệu Phong Trần. Thời gian này kinh tế gia đình sa sút. Hàn Mặc Tử đi làm Sở Đạc Điền một độ rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936 khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Sài Gòn, lấy bút hiệu Hàn Mặc Tử (Rèm Lạnh). Nhà thơ Quách Tấn góp ý đổi thành Hàn Mặc Tử (Bút mực) Tập thơ Đường luật mang tên “Lệ Thanh Thi Tập” có 3 bài Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái Ở Chùa được Phan Sào Nam họa vận lại. Năm 1936 tập thơ Gái Quê xuất bản là bước chuyển hướng sang Thơ Mới. Cuối năm 1936, Hàn Mặc Tử đi chơi Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết rồi định vào Sài Gòn tiếp tục làm báo thì phát bệnh nên về lại Quy Nhơn. Cuối năm 1937 gom góp khoảng 50 bài thơ làm trên giường bệnh được Hàn Mặc Tử gọi là Thơ Điên (gồm 3 phần: Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng và Hồn Điên) mang chung một nhan đề: Đau Thương. Tiếp đến là Xuân Như Ý (1939), Thượng Thanh Khí (1940). Mùa hạ 1938, thấy bệnh tình khó qua khỏi, gia cảnh càng sa sút, Hàn Mặc Tử sau nhiều lần do dự đã quyết định vào bệnh viện phong Qui Hòa chữa trị và mất tại đó. Hàn Mặc Tử có một vài lần bàn về thơ và người làm thơ. Theo thi sĩ thì “Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”; “Tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”; “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi!” (Tựa Thơ điên); “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt” (Quan niệm về thơ)... Riêng tôi, tôi hết sức tâm đắc với câu: Máu đã khô rồi thơ cũng khô trong bài Trút linh hồn. Hình như linh cảm trước cái chết, một số nhà thơ đã soạn sẵn những lời di chúc. Puskin có Đài kỉ niệm, Êxênin có bài thơ tuyệt mệnh viết bằng máu... Bài Trút linh hồn nằm trong tập Thơ Điên là một trong những tập thơ hay của Hàn Mặc Tử. Thơ Điên ra đời trong hoàn cảnh thi sĩ lâm vào căn bệnh hiểm nghèo cùng lúc mối tình đang nồng thắm, bỗng “chết yểu”. Đau thương chồng chất đau thương! Chính trong những tháng ngày bi đát ấy, Hàn Mặc Tử dường như đã tiên cảm sự ra đi của mình nên đã viết sẵn những lời trăn trối nhắn gửi với người yêu đồng thời bày tỏ quan niệm về thơ của mình với mọi người. Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Hàn Mặc Tử khẳng định một chân lí trong lĩnh vực sáng tạo thi ca bằng cách thơ hết sức giản dị. Chân lí ấy được đúc kết vẻn vẹn trong bảy chữ. Tôi đã đọc khá nhiều bài viết trao đổi về thơ gần đây. Ở những bài viết ấy tôi đã học được nhiều điều. Nhưng không hiểu sao tôi cứ ám ảnh bởi cách nói của Hàn Mặc Tử. Thi sĩ không lí luận dài dòng, không làm ra vẻ cao siêu, uyên bác mà nói một cách thật dễ hiểu, thật ấn tượng: Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Có thế thôi, nhưng để đúc kết được bảy chữ ấy, Hàn Mặc Tử đã trải qua bao tìm tòi, suy nghĩ, trăn trở. “Máu” ở đây không chỉ là sự sống mà còn là sức sống, là nhiệt huyết của người làm thơ đối với cuộc đời. Khi người làm thơ không còn nhiệt huyết nữa có nghĩa là anh ta nên gác bút. Vì nếu có gắng gượng viết thì cũng chỉ “đẻ” ra những xác chữ khô cứng mà thôi. Chữ có thể “bầu lên nhà thơ” khi chữ đó đã thấm qua “máu”, chứ không phải là thứ chữ được chế tác bằng một trái tim nguội lạnh. Nếu chữ chỉ được chế tác bằng một trái tim nguội lạnh thì chẳng qua đó là mớ chữ vô hồn. “Máu” đúc nên chữ, rồi chữ tạo ra thơ. Tất nhiên, đã là nhà thơ đúng nghĩa thì không thể coi thường chữ nghĩa. Hàn Mặc Tử nói: “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú”. Điều đó có nghĩa là thơ phải xuất phát từ những cảm xúc chân thật. Cái dễ nhận nhất là sự giả tạo trong thơ. Có người chẳng đau đớn gì nhưng thấy thiên hạ rên mình cũng la oai oái. Những tiếng kêu giả, khóc vờ ấy khó lòng qua mắt những độc giả tinh tường. Trong quá trình sáng tạo nhà thơ có thể bịa ra, có thể tưởng tượng ra nhiều thứ. Nhưng phải bịa, phải tưởng tượng trên cơ sở tình cảm chân thực. Lúc đó bịa, tưởng tượng mới “như thật” và còn hơn “như thật” về mặt giá trị thẩm mỹ. Trong bài Trút linh hồn, Hàn Mặc Tử viết: Ta trút linh hồn giữa lúc đây đó là điều thi sĩ tưởng tượng ra. Bởi sự thật thì mãi khi vào nhà thương Quy Hòa đúng ngày 11 tháng 11 năm 1940, Hàn Mặc Tử mới “trút linh hồn”... Thế nhưng người đọc vẫn tin sự tưởng tượng ấy là chân thực. Ở Phan Thiết! Phan Thiết! nhà thơ thả trí tưởng tượng bay bổng lên “chín tầng trời”: Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất Và lùa theo không biết mấy là hương Lúc đằng vân gặp ánh sáng chặn đường Chạm vào nhạc va nhằm thơ thiên cổ Ta lôi đình thấy trăng sao liền mổ Sao tan thành rơi xuống vũng chiêm bao Trăng tan tành rơi xuống một cù lao Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ... Cả bài thơ là tiếng rên “xuất phát từ bề sâu của một linh hồn tuyệt vọng” (Hoàng Diệp). Vì thế nó hết sức chân thực. Nỗi đau đớn trước mối tình “chết yểu” với Mộng Cầm đã khiến cho thi sĩ như điên như dại: Người đi, một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. ... Tôi vẫn còn đây hay ở đâu? Ai đưa tôi bỏ dưới trời sâu? Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi giọt lệ châu (Những giọt lệ) Và: Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm Nhớ thương còn một nắm xương thôi Thân tàn ma dại đi rồi Rầu rầu nước mắt, bời bời ruột gan. (Muôn năm sầu thảm) Hàn Mặc Tử hết sức trân trọng thơ của Mai Đình, chủ yếu cũng vì cảm xúc chân thực của nàng: Thơ em cũng giống lòng em vậy Là nghĩa thơm tho như ánh trăng Mềm mại như lời tơ liễu rủ Âm thầm trong áng gió băn khoăn. Bởi thế mà thi sĩ: Anh đã ngâm và đã thuộc làu Cả người rung động bởi thương đau Bởi vì mê mẩn vì khoan khoái Anh cắn lời thơ để máu trào. (Lưu Luyến) Nguyễn Du tả tiếng đàn nàng Kiều trong bữa tiệc “mừng công” khi Hồ Tôn Hiến vừa giết Từ Hải: Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay. Máu nhỏ năm đầu ngón tay là Nguyễn Du tưởng tưởng ra, nhưng rất chân thật, vì Nguyễn Du đã nói được nỗi đau đớn tột đỉnh của nàng Kiều. Hàn Mặc Tử làm thơ bằng máu huyết của mình: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt Như mê man chết điếng cả làn da. (Rướm máu) Cả niềm yêu, ý nhớ cả một vùng Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn (Trường tương tư) Nên hơn ai hết, thi sĩ hiểu một cách sâu sắc rằng: Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Chân lí này không phải được đúc kết qua sách vở mà qua thực tế sáng tác của chính nhà thơ. Trái tim Hàn Mặc Tử chưa bao giờ lãnh cảm trước cuộc đời. Ngay đến giây phút sắp “trút linh hồn”, thi sĩ vẫn yêu cuộc đời đến day dứt. Mặc dù cuộc đời đã đem đến cho Tử bao mùi vị cay đắng. Nói như ca dao: Thương mình lắm lắm nhiều nhiều Còn mình thương lại bao nhiêu mặc lòng. Cuộc đời có cay nghiệt với Hàn Mặc Tử đến mấy thi sĩ vẫn cứ trìu mến, vẫn cứ vấn vương, vẫn cứ luyến tiếc: Ta còn trìu mến biết bao người Vẻ đẹp xa hoa của một thời Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi! (Trút linh hồn) Phải hiểu cảnh ngộ, số phận của Hàn Mặc Tử ta mới thấy hết sự “trìu mến” ấy của thi sĩ đáng trân trọng biết chừng nào! Và đây là lời nhắn gửi cuối cùng của thi sĩ: Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây. Còn em, sao chẳng hay gì cả? Xin để tang anh đến vạn ngày. (Trút linh hồn) Có bản chép Gió sầu vô hạn thổi trong cây là vô tình làm tổn hại thơ Hàn Mặc Tử. Gió sầu vô hạn thổi trong cây thì bình thường quá. Câu thơ đã bị tước mất sự sống. Gió sầu vô hạn nuối trong cây mới thể hiện được nuối tiếc hết sức đau đớn của nhà thơ trước giây phút từ giã cõi đời. Phải thật tâm huyết với cuộc đời này thi sĩ mới viết được những câu thơ gan ruột như vậy. Đúng là “Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt”! Mấy năm lại đây chúng ta bàn nhiều về sự đổi mới của thơ. Cuộc sống thay đổi tất yếu thơ cũng phải thay đổi. Nhưng dù đổi mới thế nào đi nữa thì người làm thơ cũng phải có nhiệt huyết. Phải yêu ghét một cách chân thật. Nếu không có nhiệt huyết, nếu sống một cách hời hợt, giả dối thì nói như Hàn Mặc Tử: Máu đã khô rồi thơ cũng khô! Tôi cho đó là một quan niệm hết sức đúng đắn và sâu sắc mà những người làm thơ cần phải ghi nhớ. M.V.H (262/12-10) |
LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.
NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không. (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…
NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa
LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.
PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?
L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.
ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.
VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).
PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:
ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?
TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.
KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?
MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.
INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay
XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.
Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.
KHÁNH PHƯƠNG (Tiếp theo số 261 tháng 11-2010)
LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.
LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)