Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình văn học

10:50 15/05/2009
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

Nhà thơ Xuân Diệu

Là nghệ sĩ bậc thầy, cùng với hệ thống quan niệm về nghệ thuật thi ca, trong những công trình vừa kể trên đây, Xuân Diệu còn thể hiện quan niệm nhất quán của mình về phê bình văn học, chủ yếu là phê bình thơ. Tìm hiểu những quan niệm ấy sẽ góp phần nhận thức và đánh giá một cách toàn diện hơn sự nghiệp văn học lớn lao của Xuân Diệu, đồng thời cũng có thể rút ra được những bài học bổ ích cho hoạt động phê bình, lý luận văn học của chúng ta hôm nay.

Trước hết, với Xuân Diệu, mỗi tác phẩm văn học nói chung, mỗi tập thơ nói riêng "là một cơ thể, một sinh vật", "một tác giả, một con người", do đó "khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông, thấu hiểu"(2)

Nói "khen hay chê chưa quan trọng bằng thấu hiểu" có nghĩa là Xuân Diệu đã khẳng định sự cần thiết của khen, chê trong phê bình văn học. Bởi vì, theo ông, chê thơ mà không đúng thì rất có hại, sẽ làm nản người viết; nhưng khen thơ không đúng thì cũng rất có hại vì khuyến khích sự viết dở, và có một cái gì như là quảng cáo cho hàng không tốt, ngoài sự làm sai lạc khiếu thẩm mỹ của công chúng, còn phạm vào sự chân thật, sự thật thà. Như vậy, khen, chê một cách xác đáng, phê bình mới thực sự đóng vai trò hướng dẫn dư luận bạn đọc và thúc đẩy sáng tác. Cái hay, cái khó của phê bình văn học có khi cũng chính là ở chỗ này. Bởi lẽ, thái độ khen chê ấy không chỉ nói lên trình độ, tài năng, bản lĩnh mà còn thể hiện cả đạo đức của nhà phê bình. Dù muốn hay không thì phê bình cũng phải lựa chọn và đánh giá. Vốn đã từng tham gia giám khảo nhiều cuộc thi thơ, từng là Chủ tịch nhiều năm Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, Xuân Diệu càng thấu hiểu cái khó khăn của công việc này. Trong hơn nửa thế kỷ, vừa là nhà thơ hàng đầu, vừa là "nhà luật pháp" đầy uy tín của nền thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu rất quan tâm đến việc khen, chê kịp thời để động viên phong trào sáng tác và khẳng định những thành tựu mới của từng tác giả, tác phẩm. Ý kiến của Xuân Diệu có lúc, có khi không tránh khỏi chủ quan, nhưng nhìn chung phần lớn đều được công chúng chờ đón, tin cậy. Ở những mức độ khác nhau, cả người đọc và người được phê bình đều lắng nghe, đón nhận.

Tuy nhiên, để phê bình thực sự thuyết phục, Xuân Diệu rất coi trọng niềm thông cảm, thấu hiểu giữa nhà phê bình và nhà sáng tác. Xuân Diệu còn nhấn mạnh và giải thích rõ hơn, thấu hiểu tư tưởng lập trường đã đành, còn cần phải thấu hiểu cả phương pháp cấu tứ, tạo hình, bút pháp, thói quen, cá tính của một nhà thơ. Mặt khác, như trên đã nói, mỗi tác phẩm là "một cơ thể", "một sinh vật", "một tác giả", "một con người” - cũng có nghĩa là, ở trên đời không có những nhà thơ trừu tượng, mà chỉ có những nhà thơ cụ thể, bằng xương bằng thịt, làm thơ trong một hoàn cảnh xã hội, gia đình, sức khoẻ cụ thể, trong một thời gian cụ thể của đời mình, tức là "một thi sĩ sống làm thơ, chứ không phải một thi sĩ trong óc người phê bình". Như vậy, nếu không dựa trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu thực sự cặn kẽ, thì làm sao có thể khen, chê thoả đáng được.

Phê bình sở dĩ trở thành người bạn đường thường xuyên của văn học và không thể tưởng tượng được văn học mà thiếu phê bình vì công chúng muốn chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật, chiếm lĩnh kho tàng văn hoá, họ rất cần sự môi giới của nhà phê bình nghiên cứu. Muốn làm được vai trò ấy, phê bình văn học không thể không hiểu thấu đáo về tác giả, tác phẩm và những kiến thức cần thiết khác.

Cũng theo Xuân Diệu, một niềm vui lớn mà văn học đưa đến cho tâm trí con người là sự hiểu biết, sự thấu hiểu, sự cảm thấu. Nếu được cảm thấu người ta sẽ sống lên gấp hai, gấp ba, nghĩa là sự sống tự nhân đến mức cao, là khám phá thấy loài người ở trong một bản thân mình. Vì thế, cần phải xác định, phê bình không phải là chỉ trích, nhà phê bình không phải là lên lớp bằng chủ quan của mình, mà nhiệm vụ chính của nhà phê bình trong quan niệm của Xuân Diệu là "giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ".

Xuất phát từ quan niệm ấy, khi tìm về văn học quá khứ của dân tộc, Xuân Diệu luôn ý thức phải nói sao cho thấu lý đạt tình. Ông tra cứu, suy ngẫm từng bài thơ, ông gắn hoàn cảnh sáng tác với hoàn cảnh sống khi chưa có hướng đời của tác giả để cắt nghĩa một cách thấu đáo vẻ đẹp của nỗi buồn đau trong thơ ca xưa. Hoặc, khi "đọc một số ca dao kháng chiến của bộ đội", Xuân Diệu tâm sự:

"Tôi đọc đây, chưa phải như một nhà phê bình văn học, cân nhắc và đánh giá, mà như một người yêu mến, cảm thông - thực ra không phải tôi "đọc" mà ở đây, tôi sống với một số ca dao kháng chiến của bộ đội"(3)

Vậy là, "đọc" có nghĩa là "sống" với tác giả, tác phẩm. Sinh thời, trong phê bình, Xuân Diệu rất coi trọng việc đọc, đọc nhiều lần, nhiều cách để được cảm thấu bằng nhiều giác quan. Ông thường gọi cách đọc vội, đọc lướt không chịu lắng nghe kỹ tác phẩm là cách đọc "rất quan liêu", cách đọc "vô tâm" (Vô tâm chi lắm ai ơi! - Thơ hay rất kỵ cái người vô tâm). Ông còn dùng câu nói của Các Mác: một bản nhạc hay đến mấy cũng không có nghĩa lý gì đối với những lỗ tai không thẩm âm, và cả thành ngữ "đàn gảy tai trâu" để diễu người, và có khi cũng tự diễu mình chỉ vì vô tình không đọc kỹ mà bỏ sót cái hay cái đẹp hoặc chưa thấu hiểu đúng tác phẩm.

Phê bình văn học nói chung và bình luận thơ nói riêng còn thuộc phạm trù thẩm mỹ, phạm trù cái "gout", phạm trù khiếu thưởng thức. Nhà phê bình, người đọc thơ... có sở thích riêng của mình, còn người thi sĩ thì làm thơ với tư tưởng, tình cảm và với cả những tế bào của họ, không thể bảo anh ta đừng làm thơ với những tế bào riêng của anh ấy. Xuân Diệu phân tích cặn kẽ và cho rằng, đây là những vấn đề rất tinh diệu và cũng rất tế nhị. Nếu không cùng nhau thấu hiểu ở một quan niệm chung, một nhận thức chung, nếu không thực sự tôn trọng cá tính của nhau và thông cảm với nhau vì một chất lượng chung thì biết cãi nhau thế nào cho hết lẽ. Chính vì vậy, nhà phê bình không chỉ cần có lập trường quan điểm, vốn kiến thức, vốn hiểu biết nghề nghiệp kỹ thuật lao động thơ ca, mà còn phải có cái linh cảm của người nghệ sĩ chân chính, mới cảm được "cái hồn" toát ra từ tác phẩm; tức là phải có cái "linh nhãn" để "con mắt anh sắc hơn dao"; và theo ý Xuân Diệu, "con mắt sâu lại còn cao cường hơn con mắt sắc". Chỉ có như vậy, người phê bình mới tránh được bệnh hẹp hòi, mới vừa bộc lộ được cái "tạng" riêng của mình mà vẫn vượt qua được cái mình không được thích lắm, để phát hiện, biểu dương cái đẹp, cái khác lạ cùng với những ưu tú của một tập thơ, một thi sĩ. Xuân Diệu biểu đạt ý tưởng này trong niềm đầy cảm hiểu của người sáng tạo:

"Ta hãy khoan quy kết. Cái người lặn mò ở trong biển thực tại ra một con sò không thông thường quen mắt, người đó đã ở trong một cái thế chênh vênh rồi. Muốn cầu an, người đó có thể ném cái con sò hiện tượng kia xuống biển trở lại; nhưng vì yêu chân lý, muốn mở rộng tầm hiểu biết chung, người ấy đưa ra trình bày. Nếu chúng ta vội quy kết thì sẽ làm cho bao nhiêu người khác coi cái việc gặp những con sò lạ (chỉ lạ lúc đầu) là một cái tai vạ"(4)

Ở đây, dường như có sự gặp gỡ giữa Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn kiệt xuất và Nam Cao - nhà văn hiện thực sắc sảo nhất của nước ta, trong khát vọng "văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa ai có" (Đời thừa). Phê bình văn học, ở một góc độ nào đó, phải cùng chung khát vọng ấy mới thực sự là "người môi giới", là bà đỡ cho những công trình sáng tạo đầy trăn trở của người nghệ sĩ. Xuân Diệu thường yêu cầu nhà văn, nhà thơ không được "cầu an", càng ngày càng phải "nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa, thơm ngon nhiều hơn nữa", nhưng người đọc, người phê bình cũng không được "cầu an", phải "cải tạo cái lưỡi của mình" mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm.

Một quan niệm nổi bật của Xuân Diệu về phê bình văn học còn thể hiện ở yêu cầu "phê bình của chúng ta cần nêu được cái hay tuyệt với, hoàn mỹ của chúng ta phải vươn tới"(5)

Quan niệm trên xuất phát từ quy luật lao động sáng tạo của con người bao gồm cả quy luật lao động nghệ thuật, là bao giờ cũng hướng tới cái đẹp. Thơ vốn là tinh chất, là cái "nhụy" của đời sống, lại càng hướng tới sự biểu hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm con người. Vốn là nhà thơ lớn của niềm khát vọng "vô biên" và "tuyệt đích", trong phê bình, Xuân Diệu muốn hướng người đọc tới cái tuyệt vời, cái hoàn mỹ, tức là vẻ đẹp kết hợp hài hoà giữa giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung trong tác phẩm. Đó cũng là cái bản lĩnh, bản sắc của tâm hồn và cuộc đời thi sĩ được biểu hiện qua văn chương của họ.

Bằng cảm thức thời gian, Xuân Diệu lập luận rằng, sở dĩ văn học phải hướng tới cái hay, cái đẹp vì dần dà qua sàng lọc của ngày tháng, những hạn chế sẽ không ai nhớ nữa, chỉ có những ưu điểm, ưu tú mới sống, vì nó thuộc về "cây đời mãi mãi xanh tươi"; công chúng độc giả thì ai cũng muốn hưởng thụ cái hay, cái đẹp. Mặt khác, từ thực tiễn sáng tạo, Xuân Diệu cũng thấy rằng, rất khó tìm những nhà thơ, kể cả những nhà thơ lớn mà không có khuyết điểm, nhược điểm. Nhiều khi nhược điểm còn nặng nữa; nhưng tất cả vấn đề nằm ở chỗ: nhà thơ có ưu tú gì không? Nếu có những ưu tú, ưu việt, thì công chúng có thể trừ bì cho cả những nhược điểm lớn, để chỉ còn lại phần đóng góp của nhà thơ. Có điều phần đóng góp của một tác phẩm nhất định không thể là trung bình, vì đứng về tác phẩm mà nói, trung bình là không còn lại được gì, nghĩa là không đóng góp.

Xuân Diệu thường hay nhắc đến lời than thở của nhà thơ Pháp nổi tiếng thế kỷ XIX Alfred de Vigny về "cái khuynh hương xấu xí của sự phê bình": "Họ thích làm sống những người chết và làm chết những người sống". Ông mong sao phê bình hôm nay phấn đấu đừng cho căn bệnh ấy tái diễn, phải đấu tranh trên hai mặt để làm sống lại đẹp đẽ những nhà văn có tài đã qua và biểu dương xứng đáng những nhà văn có tài đang sống.

Cùng với sáng tác thơ ca, trong cuộc đời lao động nghệ thuật của mình, sau "Thơ Thơ" "Gửi hương cho gió", Xuân Diệu đã dành nhiều thời gian và công sức cho hoạt động phê bình nghiên cứu văn học. Ông lắng nghe chăm chú "Tiếng thơ" từ khắp mọi miền đất nước; ông công phu, tỉ mẩn chọn lựa từ hàng trăm, hàng nghìn bài thơ để vừa chỉ ra những hạn chế, vừa biểu dương kịp thời phong trào sáng tác và thành tựu của các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ. Ông sưu tầm, học tập ở ca dao vẻ đẹp chân chất, giản dị của cuộc sống và tâm hồn người lao động. Ông tìm hiểu một cách có hệ thống và làm sống lại đẹp đẽ những nhà thơ cổ điển dân tộc, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát... đến những Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu,...

Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu rất tâm đắc, mến phục nhà phê bình nổi tiếng của văn học Trung Quốc - Kim Thánh Thán (1950-1648). Phải chăng, Xuân Diệu đã bắt gặp ở đây quan niệm phê bình văn học gần gũi với chính mình. Phê bình dù đề cập đến xưa hay nay, đều không phải chỉ trả lời những vấn đề của quá khứ hoặc hiện tại mà còn là câu chuyện "tấc lòng" gửi đến mai sau; trong cái mục đích phục vụ vì mọi người, còn có cả "vì chính mình", vì "mình muốn làm duyên với người đời sau", muốn buộc người đời sau phải nhớ đến tên tuổi của mình.

Rõ ràng với ý thức như vậy, phê bình văn học sẽ là nỗi niềm canh cánh bên lòng, là một nhu cầu của nội tâm; sẽ không đơn thuần lý lẽ mà tràn đầy cảm hứng. Nó xa lạ với thứ phê bình máy móc, áp đặt vì những mục đích ngoài văn học.

P.N.T
(171/05-03)

------------------------------
1. Nhiều tác giả: Xuân Diệu - Con người và tác phẩm - Nxb Tác phẩm mới-H.1987, Tr.136
2. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.142
3. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.173
4. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.126
5. Xuân Diệu, sđd, trang 135

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.

  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.