Nhà thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm
Ngày ông mất (1), một bạn thơ của ông là Trần Tử Mẫn (2) có một bài thơ khóc, trong đó có hai câu có thể xem như một nhận xét tổng hợp về ông, nội dung cũng na ná như thế: Ưa thích kẻ sĩ (như) Mạnh Thường Quân rốt cuộc là báo đền nợ nước, Khéo giỏi về thơ (ngang) Tào Tử Kiến rất mực lo lắng cho cuộc sống của sinh linh (3) Tinh thần lo lắng cho vận nước, hoặc, nói như Trần Tử Mẫn, tinh thần báo quốc của Miên Thẩm như thế nào, có thể gọi là tư tưởng yêu nước được không mà người đương thời ca ngợi như thế? Đây là một vấn đề cầm tìm hiểu để góp phần nhận định về ông, một thành viên không thể bỏ qua của nền văn học thế kỷ 19. Miên Thẩm mất 51 tuổi, nhưng trong 12 năm cuối đời, ông vẫn chứng kiến đầy đủ một thời kỳ đau thương của lịch sử; thời kỳ thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta và sáu tỉnh Nam bộ lần lượt bị chiếm. Sự kiện một phần máu thịt của tổ quốc, lần đầu tiên sau hàng trăm năm độc lập tự chủ, bị cắt rời ra đã làm nhức nhói mọi tâm hồn Việt Nam và đốt bỏng những trái tim Nam bộ. Trước nỗi đau đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống của nhân dân ta lại cháy lên với nhiều biểu hiện cao đẹp tuyệt vời. Những mất mát, nhục nhã quá lớn của dân tộc đã tác động đến mọi tầng lớp xã hội, kể cả một số người trong hoàng tộc và giới quan lại cao cấp, là một người trí thức có tâm huyết và nhậy cảm, Miên Thẩm không thể tự đặt mình ngoài cuộc, mặc dù trước đó, do “tâm tình bách bất nghi” (4), trong ông đã hình thành ít nhiều tư tưởng chán đời, xuất thế. Nhưng với ông, nhận cuộc chủ yếu cũng chỉ bằng sáng tác, bởi vì ông là một ông hoàng, một người trong mình, quanh mình có biết bao sợi dây trói buộc. Như chúng ta biết, các ông hoàng triều Nguyễn đều được nhà vua cho phẩm tước lớn, phủ đệ rộng, bổng lộc cao, tha hồ ăn chơi, chứ không bao giờ cho tham gia chính sự. Miên Thẩm, suốt đời chỉ có một thời gian làm Tả tôn khách phủ Tôn Nhơn, một danh vị nghe rất kêu nhưng thực chất chỉ là một ông phó họ, đối với việc nước hoàn toàn vô quyền. Trong bài thơ “Khiển hoài” (giải khuây nỗi lòng), ông tự gọi mình là “quan nửa mẫu” (bán mẫu chi quan) nghĩa là một ông quan chỉ có thực quyền trên năm sào đất của phủ đệ. Tuy cuộc sống riêng là như thế, không thể có một hoạt động chính trị - xã hội thiết thực nào, song ông không tự buông thả. Ông cố biến cái mà ông gọi là “thân vô dụng” (5) của mình thành hữu dụng, trong lúc tuổi đã muộn, thì sắp đặt giềng mối cho đất nước bằng việc viết sách. “Vãn tuế kinh luân tại trước thư”. Đây là một hướng hành động đúng và ông đã đổ hết tâm huyết vào đó. Bởi vậy, tập thơ Thương Sơn, từ quyển 41 (Bạch bí tục tập 1), sáng tác từ năm 1859 trở đi, đã có không ít bài nói lên những dằn vặt và thương đau, những ước mong và suy nghĩ của ông trước tình hình đất nước đang ngày xấu đi mãi. Một nét nổi bật, rất dễ nhận thấy trong thơ ca và cũng là nét chủ đạo trong tư tưởng của Miên Thẩm đối với thời cuộc là khuynh hướng không thành việc hòa nghị của triều đình. Đã có lần ông nói thẳng: “Khen ngợi Ngụy giảng hòa với Nhung Bàn luận như vậy thật là không đúng” (6) Theo ông, nên đánh, vì “đánh thì thắng” (chiếm tất khắc) và mới thu hồi được đất đai đã mất. Khi tiễn Nguyễn Tri Phương vào Nam, ông viết: “ Nghe nói bọn quỷ (Pháp) cuối cùng ắt sẽ bị đánh bại” (Văn đạo quỷ phương chung tất khắc - Vong tiệp ứng chế). Nói “nghe nói” là để tránh căng thẳng với chủ trương của triều đình lúc họa thơ mà thôi, thực tình, với ông “đường đường quân qua đánh ắt thắng” (7), vì ông tin rằng quân và dân ta có đủ quyết tâm và sức mạnh cần thiết. Một số bài thơ đã cụ thể hóa niềm tin này, đồng thời cũng biểu lộ một quan điểm nhân dân đến mức độ nào đó của ông. Chẳng hạn, bài “Người lính sống sót” (Tàn tốt): Từ bụi cây giữa bãi xác ngổn ngang đứng dậy trở về Một tấm áo mỏng loang lỗ máu chiến trận Chống gậy một mình vào quán nút mua rượu Nói rằng còn sống thì nhập vào đồn lính Hải Vân (Loạn thi từng lý bạt thân hoàn Nhất lãnh đơn y chiến huyết ban Ỷ trượng độc cô sơn điếm tửu Tự ngôn sinh nhập Hải vân quan). Trong bài “Phiên An” (8) viết ngay sau lúc thành Gia Định thất thủ, trước sự thụt lùi, tránh né đụng độ của quân tướng triều đình, ông quả quyết: “Thấy nói hay mà chậm thì thà vụng mà nhanh” (Kiến thuyết xảo trì ninh chuyết tốc). Rồi lại nhấn mạnh: “Đất Đồng Nai (9) há lẽ không có những tay kiện thủ, bọn Khuyển Nhung sao còn có cái tâm đầy mưu mẹo (xảo trá) được (10)?” (Lộc Dã Khởi ưng vô kiện thủ, Khuyển Nhung hà tất hữu cơ tâm). Có lẽ ông cũng có phần nào sốt ruột chủ quan, nhưng phương hướng tư tưởng căn bản là đúng. Đến lúc Phạm Xuân Quế được cử vào làm Tán tương quân vụ, ông lại tiễn đưa bằng chính lòng tin vững chắc ở chiến thắng của mình: Các chư hầu (11) vâng theo lời hịch Sáu trạm cùng phát triển phương pháp đánh giữ Cuốn hết khí yêu ở biển Cần Giờ Đạp bằng lũy giặc ở Gò Mai (12) (Chư hầu thừa vũ hịch Lục truyện phát Sơn thành Cần hải yêu khí quyển Mai khâu tặc lũy bình (Tống Hình bộ Phạm Bạch Niên thị lang sung Tán Tương Gia Định quân vụ) Vì đâu một ông hoàng lại có tư tưởng khác - nếu không nói là trái - với nhà vua và các triều thần chóp bu như vậy? Có thể cắt nghĩa, một phần là do lòng thương yêu đối với đất quê ngoại (13). Một số bài thơ xác nhận điều này. Nhưng đây đâu phải là nguyên nhân bao trùm. Vậy thì phải chăng bởi ông mang cách suy nghĩ chủ quan của một người không nắm được tương quan lực lượng giữa ta và địch và không có trách nhiệm nắm giữ vận mệnh đất nước? Không, vì ông đâu phải là một người tư duy hời hợt bản năng. Theo chúng tôi, tư tưởng này của ông không phải đợi đến lúc giặc đánh mới nảy nở, mà nó đã hình thành từ trước, khi ông đối diện với các nhân vật lịch sử của ta cũng như của phương Bắc (14). Đến lúc ông ra ở phủ, nó càng được bồi dưỡng, khẳng định thêm với việc, do bản chất trung thực, phóng khoáng, ông gần gũi và tiếp thu được tư tưởng lành mạnh, trong sáng của quần chúng nhân dân. Một nguyên do nên nói đến nữa, là với tư cách chủ Súy thi xã Mặc Vân, ông còn trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng một số danh sĩ đương thời như Doãn Uẩn, Phạm Bành, nhất là Cao Bá Quát. Nhìn lại lịch sử và quá trình nước ta bị mất vào tay thực dân Pháp, không thể phủ nhận rằng, chống - hay là không tán thành - hòa nghị là một thái độ chính trị đúng đắn, hợp lý. Về hành động, đó là hành động giữ nước thực sự, về tư tưởng đó là tư tưởng yêu nước chân chính. Điều đáng quý ở Miên Thẩm là, mặc dù trong khi phái chủ hòa bao gồm không những quan lại cao cấp nhất mà cả nhà vua, có quyền lực áp đảo, có tiếng nói quyết định, ông vẫn giữ vững tư tưởng của mình. Sống và quan hệ thường xuyên với những người thân cận luôn luôn cho rằng “chiến không bằng hòa” như ông anh ruột Miên Định, ông bố vợ Trương Đăng Quê, ông bạn chí cốt Phan Thanh Giản, thế nhưng ông không thay đổi ý kiến. Kiên trì một chủ trương như vậy, mặc nhiên, giữa tư tưởng, ước vọng của ông với thực tế khách quan đã phát sinh một “bất nghi”, một mâu thuẫn thường trực. Bao nhiêu thương cảm, xót xa, day dứt đến chảy máu trong tâm hồn và thơ ca ông đều bắt nguồn từ mối mâu thuẫn không thể giải quyết được ấy. Nghe gió thu thổi, ông bỗng nghĩ đến “lũ sói lang chiếm cứ ải Bắc, vó ngựa Hồ ngang dọc cửa Đông (15) (Lang Phong kiêm tái Bắc, Hồ mã hoành quan Đông - Kim Thương). Nhìn cửa biển, thấy thuyền giặc đậu, ông chảy nước mắt: “Cột buồm lố nhố, thuyền của bọn quỷ… Chống gậy đi ven bờ cát, không nói được, nước mắt tuôn như suối” (Tường thốc quỷ phương thuyền… Trụ cùng sa chữ bạn, bất ngữ lệ như tuyền - Hải Thượng). Nghe kể lại hiện tình đất Gia Định, mắt ông rưng rưng: “Đường bên cầu ông Tả (16), chỉ tới lệ trào rơi” (Tả công Kiều bạn lộ, chỉ điểm lệ tung hoành - Văn Gia Định cận trạng). Với một người bạn vừa trở về, ông đặt câu hỏi: “Lửa hiện đang đỏ khắp Bến Nghé Núi Rồng (17), đến bao giờ (đất nước) mới thông suốt và tan hết bóng tối nặng nề?” (Ngưu Chữ Long sơn phong hỏa tại, kỷ thời phi hoát tán tằng âm? - Trùng lai). Từ những nỗi đau đó, ông cảm thấy mình luôn luôn như bị một cái gì ngăn cản, luôn luôn có một chỗ hẩng trong lòng: Tim gan muốn báo đền nợ nước nhưng hoàn toàn không có đất thi thố… (Tâm cam báo quốc toàn vô địa) và một nỗi cô đơn cứ đến với ông, có lúc thành một tiếng thở dài não nuột: Không biết vì sao khó nên nói lời Trước ngọn gió tây, dựa lưng vào ghế, một mình đau xót (Bất tri để sự nan ngôn thuyết Ẩn kỷ tây phong độc sảng thần) (Đối tửu) Có thể xem bài “Thương tâm” (Đau lòng) là tiếng nói trọn vẹn nhất của tâm tư ông lúc này: Thương tâm phiền nhẫn lệ Dục ngữ bất ưng ngôn Hữu điểm chung tri sỉ Vô công nãi thọ ân Quán viên cầu vì toại Phụ thạch giới không tồn Ngụy Giáng hòa Nhung thưởng Thù phi tự thử luân Tạm dịch: Lòng xót đau cầm nước mắt rơi Bao lần muốn nói chẳng nên lời Không công lao lại dày ân thưởng Có mặt mày nên biết hổ ngươi Ý ước về vườn xin chửa được Chí lắm đội đá uổng khôn lời Ngợi khen Ngụy Giáng hòa Nhung dịch Bàn thế là sai trái quá thôi. Quả là một nỗi buồn riêng ông mới có được nhà vua ân thưởng mà thẹn đỏ mặt, bởi vì nghĩ mình không có công lao gì với đất nước (18). Thêm một sự tiếc rẻ cũng khác người: Sẵn sàng làm mọi việc khó khăn, nguy hiểm nhưng bầu máu nóng ấy có ai cần đến mà cứ mang mãi cho uổng. Đó là gì nếu không là một tấm lòng trung thực và một ý nghĩ yêu nước bị dồn nén đến cao độ. Nhưng khi đau thương cứ tiếp tục đè nặng lên trái tim thì vẫn có nhiều lúc ông thấy lòng mình tin tưởng, phấn chấn hẳn lên, bởi vì trên đất nước này không phải ai cũng sợ giặc và muốn cầu hòa với chúng cả. Đó là lúc ông tiễn đưa Nguyễn Trực, Trần Đình Hanh và Nguyễn Khắc Mại đi mộ lính đánh Pháp. Mỗi câu thơ mở ra cho mỗi người một niềm tin ở chính nghĩa của công việc đang làm: Ba vị cầm đầu chỉnh đốn binh sĩ Giúp đỡ đội quân mới theo đường riêng Người làm tướng thấu hiểu công việc Công lao, nhà vua (sẽ) ghi sâu (Tam ty thu chiến sĩ Biệt đạo tá tân quân Ngọc trưởng cùng thám diệu Kim thành viễn sách huân) (Tống Nguyễn Trực, Trần Đình Hanh, Tùy Phương Bá, Khắc Mại, Nguyễn Công mộ sĩ chỉnh di) Đó cũng là lúc ông đọc bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, vừa ca ngợi câu văn và tác giả, vừa biểu dương tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam bộ. Lòng cảm phục tràn lên mỗi câu chữ: Tiếng giỏi văn nôm ngang với nhà viết sử mù Tả Khâu Minh Khúc ca những người dũng cảm vì nước hy sinh đạt đến cái thống thiết (trong sở tứ) của Khuất Nguyên Giương gậy làm cờ, chặt cây làm kiếm (tinh thần) so tày ngàn xưa Tiếng tướng sĩ bỏ mình kêu oán (bi thương như) đã bao lần Cuối cùng đến người thư sinh cũng đánh giặc bằng ngòi bút Báo đáp ân vua, chỉ chừng ấy cũng đáng thương biết bao! (Quốc ngữ danh tề Manh Tả sử Quỉ hùng ca đáo Khuất Bình ai Yết can thảm mộc kham thiên cổ Cán hạc đề viên tính kỷ hồi Chí cánh thư sinh không bút trận Báo quân chỉ thử diệc bi tai!) (Đọc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn) Đến một bài thơ khóc - Khóc Nguyễn Duy, Tán lý Định Biên, hy sinh trong trận chống giữ đồn Kỳ Hòa - cũng không có nước mắt, mà chỉ là những lời tôn vinh một cuộc sống trung dũng: “từ khi bọn Hồ trở nên ngạo mạn, triều đình cùng nhau ban (cách đối phó), người bầy tôi lẻ loi đã viết biểu tấu bày tỏ bầu máu nóng của mình” (Nhất tự kiêu Hồ mã, tương khan nghị Hán đình… nhiệt huyết cô thần biểu); một tinh thần quên mình vì nghĩa lớn: “đến với nghĩa cả, coi nhẹ thân mình, giữ trọn lòng trung, đôi mắt nhắm lại không luyến tiếc gì cả” (phó nghĩa thân hoàng cố, toàn trung mục tự minh); một cái chết quang vinh: “phổi gan đỏ như lửa mặt trời, hồn bay tựa ngôi sao sáng rực” (phế can hồng nhật chúng, phi hồn tỉ liệt tinh) (Khóc Nguyễn Cửu Tư Tán lý Công nhị thập vận). Có lẽ trong thơ tống tiễn của Miên Thẩm, chưa có một cuộc đưa chân nào diễn ra đầy khí thế như khi Trần Tử Mẫn đi vào Hàm Thuận. Phải chăng vì Trần là một nhân vật đã từng khởi binh đánh Pháp, lâu nay bị triều đình đổi ra miền Trung do sợ giặc trách cử, đến bây giờ lại cử vào một địa phương tiếp cận với Nam bộ, ở đó ông có thể thi hành một số biện pháp ngăn chặn được quân giặc tiến ra? Dụng ý của triều đình, chưa rõ, song với Miên Thẩm, chắc hẳn là như thế. Trần lại là một bạn thơ chí thiết từ lâu, vậy thì còn nơi đâu ông bộc lộ được hết ý nghĩ và cảm xúc của mình nhiều hơn nữa? Cho nên đọc bài thơ “Tiễn ông hiệu thục sở văn quy Trần Tử Mẫn đi vào Hàm Thuận” (Trường ca hành tống Văn quy sở hiệu thục Trần Tử Mẫn phó Hàm Thuận), thấy rõ “tâm can báo quốc” của ông được huy động tối đa để trải lên trang giấy những vần thơ sảng khoái, hào hùng. Bài thơ mở đầu bằng một đoạn luận về chí làm trai, tất nhiên là theo quan niệm và công thức của một thời đã xa nhưng dầu sao cũng là một nhân sinh quan, một chủ nghĩa anh hùng cá nhân còn có thể chấp nhận một phần trong chế độ phong kiến thế kỷ 19: Làm trai sống phải cầm hai ngọn kích Nhổ cờ vượt lũy, đi trước hàng quân Bắn tên giết chết năm chúa Hung nô Xuống ngựa, thấm mực thảo lộ bố Ném bút cười to, dựng râu nhím lên Quân kỵ giặc thua chạy đạp lên nhau Giải biên cương không dám dòm ngó nữa (Nam chi sinh bất thủ chấp trượng nhị thù Mi tinh ma lũy vi tiền khu Yêu tiễn xạ sát ngũ thiền vu Hạ mã bát mặc thảo lộ bố Trịch bút đại tiểu trương vị tu Lỗ kỵ băng bôn tự tiễn đạp Âu thoát bất cảm tiềm quy du…) Tất cả những gì cao đẹp đó chỉ để chuẩn bị giới thiệu con người tiết tháo, dám xả thân thủ nghĩa của Trần Tử Mẫn: Nghe nói lúc thiếu thời ông ở tại Đông Phố Đem hết của nhà ra mộ lính ngăn quân Hồ Vốn biết (ông) là cột gỗ đỡ ngôi nhà lớn Một người tiết tháo yêu và giữ nghĩa hết lòng Năm ấy ý khí mạnh ngang muôn người Lòng coi nhẹ tấm thân bảy thước (Văn quân sinh thiếu Đông Phố cư Phó gia mộ sĩ lực ngự Hồ Cổ tri đại hạ chi nhất mộc Tiết sĩ trượng nghĩa minh khu khu Đương niêm ý khí hùng vạn phu Thôn tâm hoàng cổ thất xích khu…) Với việc Trần vào Hàm Thuận, ông viết không úp mở: “Mừng ông từ nay rời khỏi sự khớp buộc, mang nổi căm giặc của nhà vua mà đem lòng trung và lòng cừu hận của mình ra làm việc” (Hỉ quân tùng kim ly hàm câu, định vương sở khái trung phẩm thư). Nói một cách khác, ông mừng Trần được trở lại là Trần như cũ. Vì vậy, vùng đất này chắc chắn sẽ vững mạnh, ngăn giữ được quân thù: Đầu ghềnh Trâu Nằm (19) đá chẳng dời chuyển Trên núi sông Khe Gà (20) gió tự reo Ngôi tháp sừng sững trên mặt đất trấn áp lũ ma quỷ Làng xóm che rừng, mũi tên bay ra Nước nhà có đạo lý, lũ man di chịu phục Niềm trung tín không mất, thần linh sẽ trợ phò (Ngọa Ngưu cơ đầu thạch bất chuyển Kê Khê sơn thượng phong tự hô Tốt đổ bạt địa trấn si mị Can lan tệ lâm phi bộc cô Quốc gia hữu đạo man di thủ Trung tín bất thất thần linh phù….) Trước cái may lắm của bạn, ông chợt nhìn lại mình. Lại vẫn cái việc không thể khác là ngồi “gạt mồ hôi”, “chú thích các loại sâu bọ và cá” (huy hãn, chú trùng ngư), vùi sâu tháng ngày trong đống giấy cũ, chẳng ích lợi gì cho đất nước đang cơn nghiêng nghèo cả. Bài thơ kết thúc trong một tiếng kêu thất vọng: “Than ôi, tóc bạc đợi vào sử xanh chăng?” (Y hu hi, bạch phát đãi hãn thành vô?) Tiếng kêu vang sâu một ước mong được hành động và cất lên từ một tinh thần thiết tha muốn “báo đền nợ nước”, từ một ý thức yêu nước chân thực. Tuy nhiên, đối với Miên Thẩm, hai chữ “báo quốc” không bao giờ tách rời hai chữ “trung quân”, hai khái niệm gắn liền với nhau. Giáo lý Khổng Mạnh cùng với dòng máu quý tộc luôn luôn giữ chặt ông, không cho suy nghĩ khác được. Bao giờ cũng vậy, ông chỉ ca ngợi những con người, những hành động vì vua vì nước, trước hết là vì vua. Một Nguyễn Trực, một Nguyễn Đình Chiểu, một Nguyễn Duy, một Trần Thiện Chánh, hay ai khác nữa, tất cả đều là những tấm lòng trung thành, tận tụy với nhà vua, không một lần “lỗi đạo quân thần”. Nhà vua quyết định thế nào, phải vâng theo thế ấy. Khi ông nói không tán thành nghị hòa, trong thâm tâm là muốn nói với Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Đoàn Thọ, với mình, chứ không phải với Tự Đức. Sách vở của ông Trình ông Chu và chiếc ngai vàng của dòng họ đã hóa một thứ kim cô dính chặt trên đầu, đến nỗi lúc Tự Đức sắp cắt ba tỉnh miền đông Nam bộ cho Pháp, ông còn viết: “Mong nhà vua quyết đoán sớm, hoàn toàn nhờ cậy mưu lược ứng nghiệm của ngài” (Tảo vọng thần trung đoán, toàn bằng miếu toán linh). Rất xa với ông, tư tưởng vì nước trên hết của những người đương thời như Trương Định, Võ Duy Dương. Ông không dám và cũng không thể nghĩ nổi rằng một khi triều đình đã đi ngược lại quyền lợi của đất nước thì “báo quốc” và “trung quân” không còn đi đôi được nữa. Mà điều này có phải khúc mắc hay xa xôi gì đâu, nó biểu hiện ngay bên cạnh ông với người con rể đầu là Đoàn Hữu Trưng. Vì vậy, tâm trạng ông mãi mãi là một bi kịch và tư tưởng yêu nước của ông, cho đến cuối đời, cứ thụ động, chưa một lần dám biến thành một hành vi quyết đoán nào, dù nhỏ. Bị giam hãm trong một ý thức trung quân cứng nhắc và lỗi thời, hoàn toàn bất lực và mất hết hy vọng ở thực tế, Miên Thẩm không còn cách nào khác là theo gót Lục Du (21) đi tìm niềm an ủi trong ước mơ. Bài thơ “Đêm hai mươi bảy tháng hai, chiêm bao thấy theo nhà vua đi đánh giặc, lấy lại toàn đất Nam Kỳ cũ, quá mừng hóa cuồng say, thấm mực viết bài trường ca mấy chục câu, gõ bút cười lớn, ngã ngựa tỉnh dậy, khêu đèn viết nốt trọn bài” (Nhị nguyệt nhị thập thất nhật chi dạ, mộng tùng đại giá thân chinh, tận phục Nam kỳ cổ địa, hỉ thậm cuồng túy, bát mặc tác trường ca số thập cú, chấn bút đại tiểu, đọa mã kinh ngộ, khiêu đăng túc thành chi) có thể là gì khác hơn, nếu không phải là một bài thơ tự khuây nguôi, hay nói thế này cũng được, một bài thơ tự lừa dối một cách chân thành. Những dòng chữ gọi là viết trong một giấc mộng này, thực ra là viết từ một khát vọng cháy lòng cháy ruột. Các sự việc diễn biến từ khi ra quân cho đến khi chiến thắng, đều y như có thể xảy ra, chi tiết, sống động, lớp lang, chứ tuyệt nhiên không mang dáng huyền ảo, hư hư thực thực gì cả: Giữa đất Nam, một ngọn đuốc lớn gió thổi khói bay cao Đốt phá lầu giặc và thuyền giặc Cháy râu chín thịt không cứu được Bọn Hồ kêu la rầm trời Đường đường quân vua đánh là thắng Tám năm nay mới thực thấy bình Tây Trước ngực các cụ phụ lão mang giỏ (cơm) và bầu rượu đến đón Anh hùng sáu trấn đem hết sức ra (cùng diệt thù) (Nam trung nhất cự phong dương yên Đôi nhiêu tặc lầu tiên tặc thuyên Phân tu hưu nhục cứu bất đắc Quân Hồ suy thần thanh chấn thiên Đường đường vương sư chiến tất khắc Bát niên chân kiến bình Tây tặc Mã tiên phụ lão đan hô nghinh Lục trấn anh hùng tận trân lực…) Không thể không nhận thấy trong bài thơ này một điểm tiến bộ về mặt nhận thức của Miên Thẩm mà các nhà nho trí thức đương thời không dễ có được, đó là sự đánh giá của ông về vai trò của nhân dân - mà lực lượng chủ yếu là nông dân - trong cuộc chiến đấu. Từ sự đánh giá đúng đắn đó, ông đã vẽ lên được - dù chưa thật đậm nét - hình ảnh một cuộc tấn công nổi dậy đều khắp, ngoạn mục, đem lại thắng lợi cuối cùng: Vùng núi liền cùng với vùng biển hưởng ứng lẫn nhau Không dùng kiếm kích, vung trang vung bừa Rầm rập từ Bến Nghé Đồng Nai trước mắt Đến Hòn Rái xa, tít tận bãi Tê (Liên sơn tịnh hải hỗ hưởng ứng Bất dụng kiếm kích huy sừ ưu Lộc Dã Ngưu chữ phân tại nhãn Viễn kỵ Thát dữ cùng Tê châu… (22) Một điểm nữa cũng không thể không nói đến là các ông nhìn nhận kẻ thù. Nếu trong hầu hết các bài thơ khác, chúng chỉ hiện ra dưới một cái tên gọi mượn của sách vở cổ Trung Quốc thì ở đây, chúng đã bị kêu đích danh theo cách nói Việt Nam: “giặc Tây” (Tây tặc) kèm theo tội ác lớn nhất: “khi không cất quân, chiếm giữ đất đai của người khác và ngược đãi nhân dân” (vô đoan hưng giáp binh, thủ nhân cương thổ ngược nhân manh). Cho nên dù ông nói đến một thứ “đạo trời báo phục” (thiên đạo hiếu hoàn) hay một “sông Ngân rơi khỏi trời, dịch xa ngàn dặm” (Ngân hà lạc thiên tẩu thiên lý), chúng ta vẫn nghe rõ hơn cả, cái âm vang chính của tâm hồn ông: Rửa sạch nỗi sỉ nhục của đất nước từ trước đến nay (Tẩy tận tùng tiền ưu quốc sỉ). Nhưng sự việc xảy ra, dù y như thật đến đâu, cuối cùng vẫn là trong một giấc chiêm bao ngắn ngủi. Khi viết xong, bỏ bút xuống, chắc hẳn ông lại đau xót mà nhận ra rằng đó chỉ là những ảo vọng giây lát giữa một thực tế đã bao năm tháng cứ mãi phủ phàng. Song, với chúng ta, những ảo vọng ấy không tan mờ, bởi vì nó chứa đựng một điều rất thật, không xóa được, đó là trái tim, là tấm lòng yêu nước cháy đỏ của Miên Thẩm. L.A. (13/6-85) --------------- 1. 30-4-1870. 2. Tên thật là Trần Thiện Chánh, người thôn Tân Thới, huyện Bình Long, tỉnh Gia Định, đỗ cử nhân năm 1842. Gia Định thất thủ (17-2-1859), ông tổ chức một đoàn quân Nghĩa dũng đánh Pháp. Khoảng 1862, làm đồng Tri phủ ở An Giang, sau đổi ra Phú Yên rồi ra Huế. Tại đây, ông từng làm biện lý bộ Hộ và hiệp lý Kinh kỳ thủy sư. 1867, đổi vào Hàm Thuận (Bình Thuận) một thời gian rồi lại về Huế làm biện lý Bộ Binh. 1869, được cử làm Tán Tương quân vụ Sơn Tây. Về sau, làm Hộ lý tuần phủ Ninh Bình… Ông sinh năm 1823 và mất năm 1874. 3. Nguyên văn chữ Hán: Hiếu sĩ Mạnh Thường chung báo quốc Công thi Tử Kiến tuyệt ưu sinh. 4. Trăm việc lòng đều không hợp (Bài “Phong vũ ức Khôn Chương”) 5. Sơn tăng tri ngã thân vô dụng - Du Thiên Thọ tự vãn quí. 6. Xem bài “Thương Tâm” trích ở sau. Bài viết năm 1863, sau khi triều đình đã cắt ba tỉnh miền đông Nam bộ và vẫn thấy hòa là có lợi. 7. Đường đường vương sự chiến tất khắc… Xem bài “Nhị nguyệt nhị thập thất nhật chi dạ,…” ở sau. 8. Tên cũ thành Gia Định. 9. Chữ “Đồng Nai” lúc đó còn dùng để chỉ cả vùng Biên Hòa và Gia Định sau này. 10. Chỉ thực dân Pháp, Miên Thẩm khi thì dùng chữ Khuyển Nhung, Hồ Yết, khi thì dùng chữ Tây di, Tây tặc. 11. Ý nói các tướng lãnh đang đóng quân ở các nơi tại lục tỉnh. 12. Ở thôn Phú Giáo, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (theo Đại Nam nhất thống chí). 13. Mẹ ông là người thôn Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. 14. Xem các bài thơ của ông: Lục Niên Thành, Khiển Sầu, Tráng Sĩ Hành, Nhạc Phi, Trấn Hải Thành, Di Kiến Mặc vân sào lạc thành hí đề, Hưng Đạo Vương Từ… Cũng có thể xem thêm các bài giới thiệu những nhân vật trung nghĩa trong lịch sử nước ta mà chính ông đã duyệt (Việt Sử Tổng Vịnh của Tự Đức). Tuy duyệt vào những năm cuối đời, nhưng đọc lịch sử thì hẳn là đã lâu trước đó. 15. Đông phố: Gia Định. 16. Ông Tả: Ông ngoại Miên Thẩm nguyên là Tả tham tri Bộ Công, cạnh nhà thờ ông, có xây chiếc cầu, thường gọi “Cầu ông Tả” (tác giả ghi chú). 17. Sông Bến Nghé chảy giữa hai tỉnh Biên Hòa và Gia Định cũ. Núi Rồng, tức là núi Long Ẩn, ở Biên Hòa (theo Gia Định thành thông chí). 18. Cũng có lần ông viết: Tóc bởi đau lòng mà bạc, mặt vì xấu hổ mà hồng (phát đán thương tâm bạch, nhan ưng phụ quý hồng - Tuế yến độc tọa khiển muộn nhị thủ). 19, 20. Tên một cái ghềnh và một ngọn núi ở Bình Thuận cũ. 21. Một nhà thơ yêu nước đời Nam Tống. Suốt đời ông mong mỏi nhà vua ra quân khôi phục đất Trung nguyên, nhưng không thấy, đành tự an ủi bằng một bài thơ mộng thấy mình được theo vua đi đánh giặc, lấy lại đất cũ. 22. Tác giả ghi chú: Thát dữ (Hòn Rái ở Hà Tiên - Tô Châu (bãi Tê) ở An Giang). |
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.