Phu Văn Lâu, hồi đầu thế kỷ 20, (Tranh màu nước của Gras,BAVH, No4, 1915) - Ảnh: vietsciences.free.fr
Câu ca dao đã mô tả một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và chính xác ba công trình kiến trúc tiêu biểu nhất nằm ở mặt tiền của hệ thống thành quách cung điện Huế. Ngọ Môn là bộ mặt của Hoàng Thành, Đại Nội. Cột cờ hay Kỳ đài là hình ảnh nổi bật nằm ở vị trí trung tâm của cố đô. So với hai công trình kiến trúc ấy thì Phu Văn Lâu chỉ là một tòa nhà tương đối nhỏ. Nhưng, tại sao nó lại được nói lên cùng một lượt, xem như ngang hàng? Chắc hẳn nó phải có một giá trị nào đó về mặt văn hoá và lịch sử. Chúng ta thử tìm hiểu về mặt kiến trúc, chức năng văn hoá của tòa nhà, và một số sự kiện lịch sử đã xảy ra ở đây. Theo một số sử sách của quốc sử quán triều Nguyễn thì vào đầu thời Gia Long, khi chưa có tòa nhà như ta đang thấy hiện nay triều đình đã cho xây dựng ở vị trí ấy một ngôi nhà nhỏ gọi là Bảng Đình, “các chiếu thư dụ chỉ đem bá cáo thì treo yết ở đó” (1). Đến tháng 6 năm Gia Long thứ 18 (tháng 7-1819), triều đình cho giải tỏa Bảng Đình ấy đi và xây dựng vào đó tòa nhà hai tầng được đặt tên là Phu Văn Lâu (2). Tòa nhà kiến trúc trên một cái nền hình vuông mỗi cạnh 12,24m. Mặt đất của đoạn thành giai này hơi xuôi về phía trước, nên nền cao đến 1,22m ở mặt tiền, còn ở mặt hậu thì nền chỉ cao 1,07m. Mặt nền lát đá cẩm thạch, quanh sân lát gạch Bát Tràng, nhưng nay sân đã thay thế bằng gạch ca-rô đúc bằng xi-măng. Tòa nhà chia làm hai tầng, gồm hai bộ mái chồng lên nhau, dưới lớn trên nhỏ. Mái ngày xưa lợp ngói ống tráng men vàng (hoàng lưu ly) là loại ngói được dùng để lợp cho tất cả các cung điện nằm ở trục chính của Kinh thành. Tòa nhà có 16 cột gỗ tròn sơn màu đỏ đậm. Bốn cột chính ở giữa chạy liên tục từ trên nền đến nóc tầng trên, cao khoảng 8 mét. Cột gỗ lim, chu vi trung bình 10,7m, 12 cột quần ở chung quanh cao khoảng 3m, có tiết diện nhỏ hơn, chu vi từ 0,95m đến 1m. Mỗi cột nhà đều dựng trên một bệ đá thanh. Những viên đá tảng được chạm thành hai tầng, dưới vuông trên tròn, cao 31cm. Chung quanh mặt nền, xây một hệ thống lan can cao 0,65m, chỉ bị gián đoạn ở các hệ thống bậc thềm giữa 3 mặt trước, trái và phải dùng để lên xuống. Hai lối đi hai bên không có thành bậc thềm. Hai bên hệ thống bậc cấp mặt trước có thành bậc chạm hình rồng. Đứng từ mặt nhìn lên, ta thấy có trần gỗ. Từ tầng dưới đi lên tầng trên bằng một cầu thang bằng gỗ đặt ở góc phải. Ở tầng trên, cả 4 mặt đều dựng đố bản, kiểu đố lụa khung tranh. Hai mặt trước và sau trổ cửa sổ tròn, hai mặt trái và phải trổ cửa sổ vuông, đối xứng nhau từng cặp (1). Chạy quanh bên ngoài là một hệ thống lan can con tiện bằng gỗ trau chuốt thật thanh tú và duyên dáng (2). Ở nội thất không trần thiết gì, nhưng ngoại thất thì trang trí đẹp. Trên nóc lầu đắp cặp hồi long chầu mặt nhật. Các góc mái chắp hình con giao. Các bờ nóc, bờ quyết đều chia ra từng ô hộc kiểu lòng giếng, trong đó trang trí các thứ hoa lá đắp nổi bằng sành sứ nhiều màu. Trước mặt tầng nầy treo tấm biển gỗ đề ba chữ Phu Văn Lâu (3). Dạng thức cấu trúc tòa nhà nằm trong hệ thống âm dương ngũ hành. Phu Văn Lâu hai tầng tượng trưng cho lưỡng nghi. Ở tầng trên, hai cặp cửa sổ tròn và vuông biểu hiện rõ rệt hình dáng trời và đất: trời tròn đất vuông. Cái nền, bộ phận thấp nhất của tòa nhà, có kích thước hình vuông, cũng tượng trưng cho đất, hình ảnh mặt trời trên nóc tầng hai, bộ phận kiến trúc cao nhất, hình tròn, cũng tượng trưng cho trời. Tòa nhà tuy không lớn nhưng đứng ở một vị trí quan trọng: ngay giữa mặt tiền kinh thành. Bởi vậy, ý niệm kiến trúc mang tính triết lý ấy phải được thể hiện ở đây. Dụng ý của các nhà kiến trúc Việt Nam đầu thế kỷ 19 được thấy rõ hơn qua kiểu xây dựng Kỳ đài và Ngọ Môn nằm trong câu ca dao đã được nhắc đến. Kỳ Đài ba cấp tượng trưng cho tam tài: thiên, địa, nhân. Ngọ Môn năm cửa biểu hiện ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Như vậy, nếu tính từ ngoài và trong kinh thành thì khái niệm kiến trúc siêu nhiên ấy đã thể hiện từ lưỡng nghi (âm dương) với Phu Văn Lâu, qua tam tài và Kỳ Đài, đến Ngũ hành với Ngọ Môn. Và, nếu nhìn xa hơn một quãng nữa hòn núi Ngự Bình dùng làm tiền án cho đế đô có thể tượng trưng cho thái cực. Phải chăng cả một loạt thực thể và kiến trúc nằm trên trục chính kinh thành Huế đã đi từ thái cực đến lưỡng nghi, rồi qua những yếu tố khác nữa trong hệ thống Thái cực- Lưỡng nghi - tứ tượng - bát quái - vạn vật? Tóm lại, về mặt kiến trúc, ngoài vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng và tỷ lệ hài hòa cân xứng của nó, Phu Văn Lâu còn mang rõ tính triết lý theo thế giới quan của người xưa nữa. Trong trận bão lớn năm giáp thìn (1904), Phu Văn Lâu bị hư hỏng hoàn toàn. Năm sau (1905), vua Thành Thái đã cho tái thiết lại theo quy mô cũ. Tấm biển dưới mái lầu mặt trước hiện nay là tấm biển đã được làm lại dưới thời Thành Thái trong lần tu sửa ấy. Trên biển, ngoài ba chữ đại tự Phu Văn Lâu, còn ghi hai lạc khoản với cỡ chữ nhỏ. Lạc khoản thứ nhất viết: Gia Long thập bát niên lục nguyệt nhật kiến (nghĩa là xây dựng vào một ngày thuộc tháng 6 năm Gia Long thứ 18, tức là tháng 7-1819). Lạc khoản thứ hai ghi: Thành Thái thập thất niên nhị nguyệt nhật trùng kiến (nghĩa là xây dựng lại vào một ngày thuộc tháng 2 năm Thành Thái thứ 17, tức là tháng 3-1905). (4) Trong đợt tái thiết này, ngói ống hoàng lưu ly đã bị thay thế bằng ngói âm dương màu gạch (5). Hai lần tu sửa gần đây là vào năm 1963 (6) và năm 1974 (7). Trong lần tu sửa 1963, người ta đã dựng hệ thống vách gỗ ở cả bốn mặt tầng trên thay cho đồ bản cũ có cửa sổ tròn và vuông ngày trước; chỉ trổ một cửa lá sách ở giữa mặt tiền, kiểu thượng song hạ bản: Và trong lần tu sửa 1974, người ta thay thế một số rui, đòn tay bằng gỗ, lợp lại mái bằng ngói âm dương thông thường: và nhất là thay bốn cột giữa và bốn cột góc bằng bê-tông cốt sắt giả gỗ như ta đang thấy hiện nay. Lần tu sửa gần đây nhất vào cuối năm 1984. Trong đợt này, người ta đã thay thế một cột quân đã mục nát, hai kèo, một số đòn tay và rui đã hỏng vì mái bị thủng. Ngói ở cả hai tầng mái được lợp lại, nhưng diềm mái lại không được tu bổ. Tóm lại, qua những lần tu sửa nói trên, chất liệu xây dựng và một số bộ phận kiến trúc đã thay đổi một cách tùy tiện, làm giảm giá trị của tòa nhà không ít. Phu Văn Lâu là gì? Chữ Phu Văn Lâu thường bị một số người viết nhầm, đọc nhầm là Phú Văn Lâu. Thực ra: Phu là trình bày ra, phô diễn ra. Văn là vẻ đẹp, ý nghĩa bao hàm trong các chữ văn chương, văn nghệ, văn học, văn hoá. Lâu là ngôi nhà lầu, vì nó có hai tầng. Như thế, Phu Văn Lâu là ngôi nhà lầu dùng để phô diễn những cái hay, cái đẹp trong văn hoá, nghệ thuật cho mọi người thưởng ngoạn. Tòa nhà này đã từng được nhà nước phong kiến giao cho những chức năng như trong nghĩa đen vừa giải thích: Một là nơi yết thị các chiếu chỉ của triều đình và kết quả các kỳ thi đình; hai là nơi tổ chức các cuộc vui để mừng tuổi thọ của các vua nhà Nguyễn. Thật vậy, tầng dưới (để trống cả bốn mặt chung quanh, bên trong cũng chẳng trần thiết gì) khi cần, người ta treo lên một tấm bảng sơn son thếp vàng, gọi là Kim bảng hay Bảng vàng, để đính vào đó những chiếu chỉ của nhà vua cần thông báo cho thần dân, hay niêm yết danh sách những sĩ tử thi đỗ tiến sĩ, phó bảng trong các kỳ thi đình (cũng còn gọi là điện thí) được tổ chức ở hoàng cung. Các cuộc sát hạch ở bậc cao nhất này thường diễn ra ở hai nhà Tả Vu, Hữu Vu hoặc Duyệt Thị Đường trong phạm vi Tử Cấm thành. Thông thường nhà vua ra đề thi, chấm bài và quyết định kết quả trong kỳ thi. Các thí sinh trúng tuyển được vua trao tặng lễ phục, vật phẩm và đãi yến tiệc tại điện Cần Chánh, và đôi khi còn được vua cho cưỡi ngựa xem hoa ở vườn ngự uyển. Hôm sau, triều đình tổ chức cuộc lễ truyền lô tại điện Thái Hòa hay tại Ngọ Môn để xướng danh những người thi đỗ. Tiếp đó, họ được ghi tên trên một tấm bảng lớn gọi là Bảng vàng. Tấm bảng được rước một cách trọng thể đến Phu Văn Lâu để treo yết ở đây cho mọi người đến đọc; có lính canh gác và quan hữu trách túc trực. Sau 3 ngày, tấm bảng ấy lại được rước một cách trọng thể đến trường Quốc Tử Giám để lưu trữ, xem như là một văn vật quý của nhà trường. Cuối cùng, những người đỗ tiến sĩ còn được khắc tên tuổi và quê quán vào bia đá, dựng ở Văn Miếu bên cạnh trường Quốc Tử Giám. Hiện nay, tại Văn Miếu Huế còn có 32 tấm bia tiến sĩ lập từ các khoa thi từ thời Minh Mạng đến thời Khải Định. Cái tên “Bảng vàng bia đá” là như vậy. “Bảng vàng” treo ở Phu Văn Lâu. “Bia đá” dựng ở Văn Miếu. Ngoài ra, mỗi lần nhà vua ban chiếu chỉ gì thì văn bản đó cũng đưa ra niêm yết ở Phu Văn Lâu. Vào năm 1829, một năm trước khi xây dựng Hổ Quyền - một trường đấu của voi và cọp, Minh Mạng đã cho tổ chức một trận đấu giữa voi và cọp trước Phu Văn Lâu. Nhà vua đã ngồi trên một chiếc thuyền rồng đậu gần bờ sông Hương để xem. Mặc dù con cọp đã bị buộc vào một cái cọc rất chắc, nhưng vì nó mạnh quá nên đã bứt được dây và bơi về phía thuyền vua. Mọi người hoảng hốt. Không có vũ khí trong tay, vua Minh Mạng phải dùng một cái sào để đẩy lùi con vật. Ngay sau đó, mấy người lính nhảy xuống một chiếc thuyền nhỏ tiến đến gần con thú và giết nó chết giữa dòng sông” (8). Vào năm 1830, nhân dịp Tứ tuần Đại khánh của Minh Mạng, triều đình đã tổ chức ở khu vực Phu Văn Lâu những cuộc vui chơi, yến tiệc trong suốt 3 ngày để chào mừng (9). Chính nhà vua cũng ngự ra ở Phu Văn Lâu để xem các trò vui chơi đặc biệt do nhiều địa phương về biểu diễn. Trong dịp này, Minh Mạng cho mời 100 vị bô lão ở kinh đô và các tỉnh lân cận có tuổi từ 70 trở lên. Số tuổi của họ cộng lại thành 10.000 tuổi chẵn, tức là 10.000 năm, đúng với ý nghĩa chữ “vạn thọ” để chúc nhà vua sống lâu. Đối với các cụ từ 100 tuổi trở lên, vua thăm hỏi từng người và trao tặng cho họ mỗi vị một lạng quế và một đồng tiền vàng. Sau đó, tất cả các vị kỳ lão ấy đều được nhà vua khoản đãi yến tiệc và chúc mừng họ lại bằng một số bài thơ ngự chế (10). Tại Phu Văn Lâu cũng là nơi nhà vua cùng triều thần duyệt khán các đơn vị bộ binh và kỵ binh của triều đình diễu hành. Sau đó vua xuống bến sông Hương để duyệt khán thủy binh, và xem cuộc đua thuyền đầy hào hứng và thú vị ở trên sông. Theo gương của Minh Mạng, về sau các vua Thiệu Trị và Tự Đức cũng mời các vị kỳ lão về dự các ngày lễ tứ tuần và ngũ tuần của nhà vua. Trong dịp nầy, nhân dân nô nức đến xem các nghệ nhân từ nhiều nơi trên cả nước về biểu diễn trò chơi và ca nhạc vũ ở nhà rạp dựng lên trước bến Phu Văn Lâu. Các cuộc vui công cộng diễn ra ở đây suốt 3 ngày liền. Vào năm 1843, Thiệu Trị còn cho dựng gần bên phải Phu Văn Lâu một nhà bia nhỏ, trên mặt bia khắc bài “Hương Giang hiểu phiếm” (11) là bài thứ 11 trong 20 bài thơ nhà vua làm ra để ca ngợi 20 cảnh đẹp nhất của cố đô, gọi là Thần kinh nhị thập cảnh. Để tăng thêm vẻ uy nghiêm cho Phu Văn Lâu, triều đình đã cho dựng ở hai bên mặt tiền hai tấm bia đá thanh, mỗi bia khắc bốn chữ “khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa), nghĩa là ai đi qua trước mặt tòa nhà này cũng phải cất nón mũ và xuống ngựa. Ở sân trước của Phu Văn Lâu cũng đã thiết trí hai bên hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng (12). Ngày nay, du khách gần xa đến Huế, ai lại không một lần nhìn ngắm di tích lịch sử và văn hoá ấy của cố đô. Và, ai lại không nghe vang vọng từ đây câu hò mái nhì man mác, gợi lại tấm lòng yêu nước thiết tha của nhân dân ta, mà tương truyền gắn liền với tâm sự vua Duy Tân thuở nọ: Chiều chiều trước bến Văn Lâu Ai ngồi ai câu, Ai sầu ai thảm, Ai thương ai cảm, Ai nhớ ai trông, Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non. Huế đầu 1985. P.T.A. (14/8-85) ------------ 1. Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học, tập IV, Hà Nội, 1963, trang 380. 2. Nguyễn Văn Hiền. Le Pavillon des Edits, Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1915, trang 377. 3. Ba chữ Phu Văn Lâu trên tấm biển thời Thành Thái này là do Tham tri bộ công Phạm Văn Điền viết. Ông có tài viết chữ rất đẹp. Sau khi về hưu, ông được tặng hàm Thượng thư bộ lễ. 4. Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh sư, bản dịch của Nguyễn Tạo, Sài Gòn, 1960, trang 66. 5. Nguyễn Văn Hiền, nơi đã dẫn. 6. Nguyễn Bá Lăng, vấn đề bảo tồn cổ tích, Tạp chí khảo cổ, Bộ mới, số 1, Sài Gòn, 1967, trang 18. 7. Theo bản “báo cáo nguyệt đề” của chi nhánh Bảo tồn Cổ tích Huế (văn bản đánh máy) đề ngày 23-10-1974, số 471- BTBT gởi ông Giám đốc viện khảo cổ Sài Gòn. 8. Nguyễn Văn Hiền, bài đã dẫn, trang 379-381. 9. Đại Nam Thực lục, bản dịch, tập XXII, Hà Nội, 1969, trang 68. 10. Nguyễn Văn Hiền, bài đã dẫn, trang 379-381. 11. Hương Giang hiểu phiếm: đi chơi thuyền buổi sáng trên sông Hương. 12. Rất tiếc là ngày nay hai tấm bia và hai khẩu súng đều không còn nguyên tại chỗ. |
Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).
Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.
BẠCH LÊ QUANG
Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.
HỒ THỊ HỒNG
Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.
(SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô Huế mà khám phá tiếp nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.
PHẠM HUY THÔNG
Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.
LÊ HUY ĐOÀN
Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.
VÕ NGỌC LAN
Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.
LÊ PHƯƠNG LIÊN
…Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG
Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.
THANH TÙNG
Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.
NGUYỄN HUY KHUYẾN
Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.
VÕ NGỌC LAN
Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.
LÊ VĂN LÂN
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.
TRẦN BẠCH ĐẰNG
Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.