Phủ Phước Yên và danh tướng Nguyễn Hữu Dật

09:43 17/12/2010
NGÔ THIÊN THUPhước Yên một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của Nguyễn Hoàng. Sau khi lên ngôi chúa ông cải tổ lại mọi công việc và được dân gọi là chúa Sãi. Sau khi Nguyễn Hoàng mất vào năm 1613, theo lời di huấn, ông ra sức củng cố sức mạnh cho mình bằng cách hoàn thiện bộ máy hành chính và quân sự... Năm 1626 ông dời phủ từ Dinh Cát vào đất Phước Yên để lập phủ mới. Mục đích chính cho việc chuyển phủ vào đây là để chuẩn bị thực lực chống quân Trịnh lâu dài.

Miếu thờ danh tướng Nguyễn Hữu Dật

Vào thời chúa cai quản phủ Phước Yên có rất nhiều người tài giúp sức như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tấn... Đặc biệt Nguyễn Hữu Dật có công rất lớn trong công cuộc cải tổ bộ máy quân sự, chỉ huy tài giỏi một đội quân tinh nhuệ qua mấy đời chúa Nguyễn. Trong cuộc đời binh nghiệp, ông đã giúp chúa Nguyễn đánh tan mọi cuộc nam tiến của chúa Trịnh.

Theo phả hệ họ Nguyễn, ông là cháu 18 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà Đinh và cháu 8 đời của công thần Nguyễn Trãi nhà Hậu Lê. Cũng theo phả hệ họ Nguyễn thì chi của Nguyễn Hữu Dật và chi chúa Nguyễn đều là con cháu Nguyễn Trãi và chi của ông là chi trên của chi chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Dật sinh tại Thăng Long. Bố ông là Nguyễn Triều Văn vào Thuận Hoá theo chúa Nguyễn Hoàng từ năm 1609 và chính thức định cư tại huyện Phong Lộc (Quảng Bình).

Nguyễn Hữu Dật lúc nhỏ đã tỏ ra khí chất anh tài, văn võ song toàn, thi đỗ khóa thi Hoa Văn do chúa Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức tại Phước Yên và được bổ vào chức Tham cơ vụ.

Năm 1627, chúa Trịnh Tráng mang quân nam tiến lần thứ nhất. Nguyễn Hữu Dật được làm chức Giám chiến, cùng tướng Phúc Vệ mang quân ra đóng ở nam sông Gianh. Khi hai bên đang giằng co, ông dùng mưu sai người phao tin phía bắc Trịnh Gia, Trịnh Nhạc sắp dấy loạn. Trịnh Tráng nghi ngờ trong họ sinh biến nên hạ lệnh rút quân.


Tương truyền mỗi lần được chúa Nguyễn ban thưởng, ông thường chia cho cấp dưới, nhất là những người nghèo khó, hoặc xét theo hoàn cảnh mà ban thưởng. Bởi vậy ông rất được lòng tướng sĩ và nhân dân. Không những thế, đối với tù binh, ông cũng đối xử rất nhân hậu.

Năm 1631, Nguyễn Hữu Dật theo Đào Duy Từ đắp chiến lũy Nhật Lệ (lũy Thày) quan trọng dài 18 km bắt đầu từ “núi Đâu Mâu qua cửa biển Nhật Lệ, rồi men theo sông Lệ Kỳ và sông Nhật Lệ tiến lên phía đông bắc đến làng Đông Hải” (dẫn theo Đào Duy Anh). Đây là một chiến lũy quan trọng giúp quân Nguyễn, vốn có lực lượng mỏng hơn, cầm cự được với quân Trịnh trong các cuộc giao tranh. Năm 1635 Đào Duy Từ mất (tài liệu của Đào Duy Anh ghi năm mất là 1635), Nguyễn Hữu Dật tiếp tục nâng cấp các chiến lũy đã có, đồng thời xây dựng lũy Động Cát để củng cố thêm tuyến phòng thủ lâu dài.

Một trong những trận đánh nổi tiếng nhất của Nguyễn Hữu Dật là vào năm 1648, cả cha con ông cùng ra quân. Nguyễn Triều Văn lĩnh quân thủy, Hữu Dật lĩnh quân bộ, đánh thắng quân Trịnh một trận lớn. Ông được chúa Nguyễn thăng chức cai cơ, làm Ký lục dinh Bố Chính (dẫn theo Wikipedia).

Năm 1655 quân Nguyễn lại đại thắng quân Trịnh do tướng Trịnh Đào chỉ huy. Trong trận này chính tay Nguyễn Hữu Dật đã bắn bị thương Trịnh Đào tại đèo Ngang (dẫn theo Đại Nam thực lục).

Trong những năm ở Phước Yên ông được dân chúng địa phương kính trọng. Chính vì vậy sau khi ông mất dân làng lập miếu thờ, gọi là miếu Chiêu Vũ hầu.

Miếu nằm giữa cánh đồng làng Phước Yên, trước mặt là dòng sông Bồ thơ mộng. Miếu được trùng tu vào thời Minh Mạng.. Đợt trùng tu sau cùng là vào năm 2000.

Dòng chữ Hán: Trung Thiên Chính Khí trên miếu thờ


Phía trên cao mặt tiền chính diện của miếu có hàng chữ Hán: Trung Thiên Chính Khí (chính khí cao ngất trời).

 Hai bên có hàng câu đối:

Ngân hoán sơn hà triều hữu phước

Trần thanh ma giới dã vô yên

(Phước chứa trong triều sông núi định

Khói tan ngoài nội cỏ gai quang)

Phía trong miếu chính điện có đề hai chữ Hán lớn miêu tả khí phách thiên bẩm của Nguyễn Hữu Dật: Hạo nhiên (khí chất cuồn cuộn mạnh mẽ tự nhiên).

Hai bên có hai vế đối ghi công trạng lẫy lừng của ông:

Ngự hà lưu vĩ tích  

Thiên phủ tráng linh thanh

(Sông ở kinh thành lưu danh công trạng lừng lẫy

Phủ tận trên trời vang dậy tăm tiếng uy linh).

Tại làng Phước Yên hằng năm vào ngày 17 và 18 tháng hai âm lịch, dân giáp Trung do ông giáp trưởng đứng đầu lo việc cúng tế ngài Chiêu Vũ hầu (Làng Phước Yên phân chia địa giới thành bốn giáp là giáp Trung, giáp Đông, giáp Tây và giáp Nam. Mỗi giáp được phân công việc thờ cúng riêng). Giáp trưởng giáp Trung hiện nay là ông Nguyễn Đình Yến (chức danh giáp trưởng được dân bầu trọn ba năm một lần). Ông Yến cho biết còn có một miếu thờ Chiêu Vũ Hầu khác ở Kim Long, Huế.

Có nhiều truyền thuyết từ dân làng Phước Yên liên quan về Nguyễn Hữu Dật, trong đó có nói về cái chết của ông. Trong một trận đánh lớn ở trận tuyến sông Bồ ông tử thương và được một con voi chở về phủ. Sau đó con voi nhịn đói chết theo chủ được dân địa phương chôn cất. Ở Phước Yên hiện có di tích gọi là Ụ Voi được cho là nơi chôn chất con voi, còn mộ của ông Nguyễn Hữu Dật thì được chôn ngay dưới miếu thờ ông.

Tuy nhiên, theo sử liệu trong thời kỳ Nguyễn Hữu Dật còn sống thì không có trận chiến nào xảy ra ở sông Bồ. Các trận đánh hầu hết đều xảy ra ở mặt trận sông Gianh, sông Nhật Lệ hoặc tại các vùng đất thuộc Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An...

Ông mất năm 1681 tại đạo Lưu Đồn (Quảng Bình), thọ 78 tuổi và được chôn cất tại núi An Mã thuộc huyện Lệ Thủy ngày nay. Chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng ông là Chiêu quận công, thụy là Cần Tiết. Nhân dân quanh vùng cảm đức độ của ông gọi ông là Phật Bồ Tát, lập đền thờ ở Xóm Bến, Vạn Xuân gọi là đền Tĩnh Quốc công. Ông được nhà Nguyễn thờ tại Hữu vu thuộc Thái miếu và được truy tặng Khai quốc công thần Đặc tiến Tráng vũ tướng quân, Thái phó, thụy Nghị vũ, phong là Tĩnh quốc công Nguyễn quý công tôn thần.

Nguyễn Hữu Dật cùng với Nguyễn Hữu Tấn là hai vị tướng được ứng vào bài thơ:

“Tiên kết nhân tâm thuận
Hậu thi đức hóa chiêu
Chi diệp kham tồi lạc
Căn bàn dã nan diêu”

(Trước hết lòng người thuận
Sau thi đức hóa hay
Cành lá tuy rơi rụng
Cội gốc thật khó lay)

Một bản dịch khác:

(Trước kết lòng người Thuận
Sau ban đức hóa Chiêu
Cành lá dù rơi rụng
Gốc rễ khó mà xiêu)


Trong đó chữ THUẬN và chữ CHIÊU là ứng vào Thuận Nghĩa Hầu Nguyễn Hữu Tấn và Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật là hai vị trong các danh tướng trụ cột của chúa Nguyễn.

N.T.T

(261/11-10)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁI

    Ngày sinh, nơi sinh, ngày mất, nơi mất, nơi an táng, nơi cát táng là những mốc thời gian quan trọng, đáng nhớ của đời người và con cháu vì dân gian coi đó là việc thể hiện hiếu đạo đối với người đã mất, với tổ tiên, ông bà: Sống nhà thác mồ.

  • (SHO). Nhiều ngày qua, báo chí và cộng đồng dân cư mạng đã bày tỏ lòng kính yêu Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua những tin tức, đề xuất về việc lựa chọn đường đặt tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp

  • (SHO). Bộ VHTTDL đã có công văn gửi UBND các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước về việc phối hợp hoàn thiện hồ sơ di tích quốc gia đặc biệt Hệ thống di tích đường Hồ Chí Minh.

  • NGUYỄN VĂN DẬT 

    Quê hương là chùm khế ngọt
    Cho con trèo hái mỗi ngày.

                       (Đỗ Trung Quân)

  • KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP CẢNG CHÂN MÂY

    NGUYỄN HỮU THỌ
    (Chủ tịch, Giám đốc Công ty TNHH Một Thành Viên Cảng Chân Mây)

  • LÊ XUÂN THÔNG 

    Vai trò của nhà Nguyễn với Phật giáo Ngũ Hành Sơn
    Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) vốn đã là một trung tâm Phật giáo của Việt Nam thời chúa Nguyễn, nơi hình thành sớm các đạo tràng với sự tu chứng của các bậc danh sư, và đặc biệt nhận được sự quan tâm hỗ trợ của triều đình.

  • PHAN THUẬN AN

    Một sự tình cờ đã xảy ra trong lịch sử cận đại Việt Nam: có hai tướng Ngô Văn Sở sống cùng một thời kỳ. Xin tạm gọi nhân vật thứ nhất là tướng Ngô Văn Sở ấy, và nhân vật thứ hai là danh tướng Ngô Văn Sở triều Tây Sơn.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN
                         Tùy bút

    Đi trong tiết trời ngập tràn gió lạnh mùa xuân Côn Sơn, con đường hun hút xuyên giữa cánh rừng thông thoảng nhẹ từng làn mây khói mỏng mảnh bay lượn lờ, như dẫn dắt con người vào một thế giới xa xăm thanh vắng.

  • NGUYỄN VĂN QUẢNG - ĐÀO LÝ

    Thành Hóa Châu là một tòa thành có vai trò rất lớn trong lịch sử, chính vì thế nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ rất sớm của các sử gia.

  • NHỤY NGUYÊN

    Làng cổ Phước Tích quyến rũ với phong cảnh nhà vườn xanh mát. Cây thị gần ngàn năm tuổi tỏa bóng bên ngôi miếu cổ là một phần hồn vía của làng cùng nhiều mẩu chuyện thú vị về những di chỉ Chăm.

  • MẠNH TIẾN

    Rời Mèo Vạc về Đồng Văn, ngồi sau lưng anh xe ôm người Hmông, tôi vượt Mã Pì Lèng trong một sáng mùa hè mưa rả rích. Cung đường núi hiểm trở, liên tục gấp ngược khủy tay. Cheo leo. Một bên thăm thẳm đá, cao vun vút. Một bên hun hút sâu, những thung lũng.

  • NGUYỄN VĂN DẬT

    Theo gia phả của thợ đúc xứ Đàng Trong để lại thì từ thời Lê Trịnh mà thợ đúc xứ Kinh Bắc ra đi theo Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp vì nhiều lý do mà trong gia phả nguyên bản bằng chữ Hán được soạn từ thời Cảnh Hưng (1740-1786), rồi tục soạn các đời tiếp Gia Long, Tự Đức đã ghi như sau:

  • LÊ TRÍ DŨNG

    Tôi vẫn phải thưa với bạn đọc rằng suy nghĩ dọc đường thì bao giờ cũng trục trà trục trặc, lục cà lục cục, lủng cà lủng củng và nó cũng gập ghềnh theo nhịp bánh xe lăn, nhất là lúc qua ổ trâu, ổ gà...

  • NGUYỄN QUANG HÀ - NGUYỄN VĂN DŨNG

    Muốn nhìn bức tranh thiên nhiên dựng khung cảnh hoành tráng của Bạch Mã, phải lùi đủ độ xa mới thật chiêm ngưỡng hết dáng vẻ uy nghi của nó.

  • NGUYỄN QUANG LẬP

    Thế rồi Ăm Hươn chống gối đứng dậy, lảo đảo tiến về vách trái nhà sàn đan dày bằng tre ca lay. Nơi đó có cái ca dóc như một búp măng ám khói, đang treo rủ ngược xuống, Ăm Hươn tiến tới gần, dướn lên, với tay lấy ca dóc nhưng không được. Lại dướn lên.. lại không được.

  • NHẤT LÂM 

    Trời đã sang thu, ngồi bên sông Héc Gieng chảy qua thị trấn Na Rì lộng gió mà uống rượu về đêm thì thật quá thú. Khúc sông này hẹp, bãi cát vàng hun dưới trăng, và bên kia sông là dãy núi trùng điệp chạy mãi tận Cao Bằng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Các dân tộc thiểu số anh em sống nép mình bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt. Trong đó có nét đẹp của nghệ thuật làm đẹp mà những chủ nhân của nó hiện ít nhiều còn giữ lại hoặc hồi tưởng qua kí ức.

  • LÊ QUANG THÁI

    Chi thứ 5 trong 12 chi là THÌN, tượng cho con Rồng, chữ Hán viết LONG (龍), còn đọc là “thần”, có nghĩa lý như chữ “Thần” (宸), dị âm đồng nghĩa. Chữ này còn có nghĩa là cung vua. Cung điện sơn màu đỏ là vì thế.

  • VŨ TRƯỜNG AN

    Xưa nay, biểu tượng rồng thường được ứng với những bậc thiên tử, còn những người dân bình thường, chỉ có thể ví với thảo cỏ hay là hàng tôm tép, con bống, con cò..., ví mình với rồng dễ phạm tội “khi quân”.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG (Ghi chép)

    Ngày 02 tháng 5 năm 2011, Ban tổ chức Trại sáng tác văn học Quy Nhơn (do hai tạp chí Văn nghệ Quân đội và Sông Hương đồng tổ chức dưới sự tài trợ của Binh đoàn 15) đã tổ chức một chuyến đi thực tế tại Đức Cơ-Gia Lai, nơi có 3 công ty lớn của Binh đoàn đang làm ăn tại đó. Nhân tiện, tôi rẽ ngang vào Plei-Ku, nơi có 3 người đồng nghiệp cũng là học trò của tôi.