Phong trào Hòa Bình

08:59 16/05/2014

LÊ VĂN LÂN

Phong trào đô thị trong chống Mỹ cứu nước được khởi đầu bằng phong trào Hòa Bình, phong trào phát triển sâu rộng ở các thành thị miền Nam, đặc biệt là Huế và Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay)…

Tranh bút sắt trong phong trào đô thị Huế của họa sĩ Bửu Chỉ - Ảnh: TL

Phong trào bị đàn áp khốc liệt nhưng tác động to lớn của nó đã làm rõ hơn phương châm “tấn công” và “nổi dậy” trong cách mạng miền Nam, góp phần cực kì quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giành lấy hòa bình và thống nhất đất nước.

Bối cảnh phong trào Hòa Bình

Phong trào Hòa Bình ở Huế diễn ra sau chiến thắng vang dội Điên Biên Phủ buộc địch phải kí kết Hiệp định Genève. Cách mạng đã dành một nửa nước, vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời để hai năm sau xúc tiến Tổng tuyển cử bầu ra một chính quyền duy nhất cho một nước Việt Nam thống nhất. Và nếu mọi diễn tiến diễn ra suôn sẻ gần như cách mạng Việt Nam sẽ giành thắng lợi hoàn toàn.

Trong bối cảnh đó, Mỹ ráo riết chuẩn bị mọi điều kiện, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng. Cả Diệm và Mỹ đều tỏ rõ lập trường đứng ngoài Hiệp định Genève, phủ nhận sự tồn tại của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xây dựng miền Nam trở thành tiền đồn của Chủ nghĩa tư bản, biến vĩ tuyến 17 làm ranh giới lãnh thổ chia cắt lâu dài đất nước.

Được sự hà hơi tiếp sức của Mỹ (một siêu cường hàng đầu thế giới có vũ khí nguyên tử và kinh tế giàu mạnh bậc nhất), Ngô Đình Diệm đã tiến hành bài bản phế truất vua Bảo Đại, hất cẳng Pháp, dẹp các đảng phái, giáo phái; đồng thời công khai tuyên chiến với cách mạng. Diệm lấy ngày 20/7 làm ngày Quốc hận, hô hào một cuộc thánh chiến: Lấy nước miền Nam quốc gia chống lại nước miền Bắc cộng sản, lấy học thuyết cần lao nhân vị hữu thần chống lại chủ nghĩa cộng sản. Xây dựng Đảng cần lao làm nòng cốt, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong “phong trào cách mạng quốc gia”, xây dựng sâu rộng các tổ chức “thanh niên Cộng hòa”, “phụ nữ liên đới”, đưa gần một triệu dân di cư vào Nam tổ chức thành lực lượng hậu thuẫn. Diệm phát động bạo lực với khẩu hiệu rạch ròi: Cộng sản và quốc gia không đội trời chung, ai nói chuyện hòa bình là Cộng sản, ai kêu gọi hiệp thương, tổng tuyển cử là Cộng sản. Tình hình đó đặt ra cho những người hoạt động cách mạng, quần chúng yêu nước trước một tình thế cực kì nguy hiểm và khốc liệt.

Trong lúc đó, về phía cách mạng, thi hành Hiệp định Genève chính quyền và quân đội kháng chiến tập kết ra miền Bắc với niềm tin hai năm sau sẽ tiến hành tổng tuyển cử, chỉ một số ít cán bộ Đảng ở lại cùng đồng bào đấu tranh bảo vệ hòa bình, tiến tới hiệp thương thống nhất Tổ quốc. Và khi Mỹ Diệm chĩa mũi dùi về phía cách mạng, thì công an mật vụ tiến hành lùng sục, bắt bớ, tra tấn, tù đày, bắn giết, đe dọa, mua chuộc. Hành động điên cuồng đó lại được sự tiếp tay của một số cựu kháng chiến bị mua chuộc, phản bội trở cờ đã làm cho tình hình ngày càng nghiêm trọng hơn phong trào bị đàn áp khắp nơi; nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị vỡ, nhiều cán bộ chủ chốt bị bắt, một số ít còn lại bị đánh bật ra khỏi địa bàn, lên rừng hoặc thay đổi hành trang tìm các địa bàn khác chiến đấu.

Phong trào hòa bình ở Huế diễn ra trong bối cảnh ngặt nghèo như vậy. Phương châm của cách mạng là “tấn công” và “nổi dậy” thì mũi tấn công gần như hoàn toàn bị bẻ gãy. Và Huế đã nổi dậy như thế nào khi không còn sự phối hợp của tấn công?

Phong trào hòa bình

Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi vang dội kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp với kí kết Hiệp định Genève. Ngô Đình Diệm được Mỹ hà hơi tiếp sức ra sức xuyên tạc Hiệp định, phủ nhận thành quả kháng chiến, chúng lấy ngày ký kết hiệp định Genève làm ngày Quốc hận, cơ quan công sở treo cờ rủ 3 ngày.

Trong khi đó các tầng lớp nhân dân Thừa Thiên Huế tổ chức ăn mừng hòa bình. Trên ba vạn văn bản Hiệp định Genève, cùng tập thơ Tiếng Nói Dân Nghèo, thơ văn của Vũ Anh Khanh, thơ của Đoàn Văn Long… được phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân ở Huế và các huyện. Ngày 01/8/1954, trên 1,5 vạn đồng bào Huế xuống đường hoan hô Hiệp định, đòi thả tù binh, đòi thả chồng con bị cưỡng bức vào lính ngụy. Ngày 01/5/1955 trên 3 vạn đồng bào tham gia mít-tinh ở quảng trường Phu Văn Lâu khẳng định lập trường bảo vệ hòa bình, kêu gọi nhà cầm quyền miền Nam thi hành Hiệp định Genève, hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, kêu gọi thực thi tự do dân chủ, chống khủng bố, đòi dân chủ dân sinh như phong trào cứu đói, đòi đắp đập Thuận An… Và khi Mỹ Diệm mở chiến dịch “tố Cộng” đợt 1 ngày 20/8/1955 bắt trên 100 cán bộ đảng viên buộc phải li khai, bắt xé cờ Đảng. Trước tình hình đó, ngày 28/8/1955, trên 3 vạn đồng bào Thừa Thiên Huế xuống đường biểu tình trước chợ Đông Ba trên đoạn đường Trần Hưng Đạo với nội dung quyết liệt hơn với khẩu hiệu: “Đả đảo độc tài”, “Hòa bình muôn năm”, đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Đoàn biểu tình mang theo nguyện vọng với hàng vạn chữ kí của nhân dân Thừa Thiên Huế. Mặc dù cuộc biểu tình bị đàn áp khốc liệt nhưng việc nổi dậy của quần chúng đã đẩy Mỹ Diệm vào thế hoảng loạn. Ngô Đình Diệm tức tốc về Huế vừa xoa dịu nhân dân bằng những biện pháp tình thế như đắp đập Thuận An, giải quyết chắp vá những vấn đề dân sinh, đồng thời sốc lại đội hình đẩy mạnh chiến dịch tố cộng. Phong trào hòa bình bị dìm trong biển máu.

Tất nhiên, để đưa trên 3 vạn văn bản hiệp định Genève và các ấn phẩm đòi hòa bình; để tổ chức các cuộc biểu tình lớn đòi hòa bình lấy chữ kí của hàng vạn người đòi hòa bình trong bối cảnh Mỹ Diệm ra sức đàn áp, uy hiếp, khủng bố kể cả mua chuộc là điều không dễ dàng. Bởi vì để có 3 vạn người biểu tình thì người dân nông thôn cũng phải có ít nhất 2/3 trong đó. Đòi hỏi những người cầm đầu phải có uy tín và đủ sức dóng ngọn cờ hiệu triệu và sẵn sàng xả thân vì đại cuộc; phải có một hệ thống chân rết là các tổ chức cách mạng, các tổ chức biến tướng hoạt động đủ mạnh, có nhiều kinh nghiệm trước đó như phong trào chống bắt lính, phong trào Bình dân học vụ… đủ sức hành động đồng bộ thống nhất trong những thời điểm nhất định.

Chi bộ tri thức, tập văn Ngày Mai và phong trào Hòa Bình
 

Bìa tập văn Ngày Mai tập 1, với hình chim bồ câu, do HS Phạm Đăng Trí thực hiện- Ảnh:TL

Nói về phong trào Hòa Bình ở Huế không thể không nói đến chi bộ trí thức và tập văn Ngày Mai. Đây là những hạt nhân quan trọng, có tính quyết định của phong trào Hòa Bình ở Huế. Những năm 1949 - 1950 ban vận động trí thức thành phố do đồng chí Tôn Thất Long, con trai cụ thượng thư Tôn Thất Đàn phụ trách, đã tranh thủ được sự ủng hộ của các tầng lớp trên, một chi bộ do Thị ủy trực tiếp chỉ đạo được thành lập gồm ông bà bác sĩ Thân Trọng Phước, bác sĩ Lê Khắc Quyến, kĩ sư Nguyễn Hữu Đính, giáo sư Tôn Thất Dương Kị, Tôn Thất Dương Tiềm,… Bí thư chi bộ là kĩ sư Hà Xuân Hiển. Một hội nghị nhân sĩ, trí thức, đại biểu tôn giáo, đại biểu công thương gia được tổ chức tại Thanh Thủy Chánh (Hương Thủy) chuẩn bị cho cuộc tổng phản công; tại hội nghị, đồng chí Hoàng Phương Thảo đã giới thiệu tình hình và triển vọng của cuộc kháng chiến. Ở thời điểm này, những người trong chi bộ trí thức đều đã mất. Người biết cũng rất lờ mờ. Đồng chí Trần Hân nguyên Bí thư Thị ủy Huế những năm 1950 qua trao đổi cho biết: khi nhận nhiệm vụ có nghe nói đến chi bộ này nhưng không rõ lắm. Đồng chí Ngô Yên Thi nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, người chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế khẳng định: Huế có chi bộ trí thức, nhưng lúc đó mình còn nhỏ không rõ lắm, có gì hỏi đồng chí Phan Nam. Chúng tôi đã tiếp xúc đồng chí Phan Nam, đồng chí Võ Đại Triền, những đồng chí lãnh đạo Thành phố được tỉnh phân công vào Nội thành vận động chuẩn bị tổng phản công đều khẳng định: có chi bộ tri thức và bản thân họ cùng gia đình là chỗ dựa đáng tin cậy và là nơi an toàn những lúc cách mạng có khó khăn. Có thể danh sách chi bộ tri thức còn nhiều, nhưng những người chỉ đạo, hiểu rõ và nắm chi bộ này là các đồng chí Tư Minh, Ngô Lén… thì nay đã không còn nữa. Thời đó lúc nói về chi bộ trí thức có người nói vui đó là chi bộ bơ sữa, chi bộ xa lông… điều này cũng dễ hiểu bởi vì họ là những người học nhiều hiểu rộng, hiểu rõ văn hóa Đông Tây, hiểu sâu sắc về dân chủ phương Tây, trước khi trở thành người cộng sản. Xuất thân của họ là hoàng tộc, tầng lớp quan lại. Họ là những chính khách uy tín lớn, nếu có điều kiện họ có thể tham chính; Bộ trưởng, Thủ tướng có thể đến với họ khi có cơ hội.

Cơ quan ngôn luận của phong trào Hòa Bình ở Huế là tập văn Ngày Mai; chủ lực của tập văn hóa Ngày Mai không ai khác là những nhân vật chủ chốt của “chi bộ tri thức” Ngày Mai ra được 4 số thì bị đàn áp khốc liệt. Ngày Mai nói gì trong đó? Công văn của Võ Thu Tịnh, Giám đốc Nha Thông tin Trung Việt gởi Tổng trưởng Thông tin và Tác Chiến Tinh Thần ngày 24/02/1955 đã khái quát: “Hiện thời tại Trung Việt đang được lưu hành một số ấn phẩm văn nghệ, mới xem qua thì không ra mặt ca tụng Việt Minh, nhưng sự thật nhắm mục đích tuyên truyền cho họ bằng cách nêu cao quan điểm hòa bình của đối phương và thôi thúc giai cấp đấu tranh một cách khôn khéo trong những vần thơ hoặc câu văn xuyên tạc”.

Ngày Mai số 1 ra mắt tháng 8/1954 đến số 4 phát hành tháng 3/1955. Dù chỉ 4 số và trong khoảng thời gian ngắn nhưng qua tập văn Ngày Mai chúng ta có thể khái quát tầm vóc của phong trào Hòa Bình ở Huế. Từ nhóm nòng cốt trong chi bộ tri thức ban đầu, Ngày Mai đã tập hợp rộng rãi tầng lớp trên ở Huế có danh vọng và có uy tín lớn không những ở Huế mà còn đối với cả nước: Từ cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Võ Liêm Sơn, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, Tiểu Mai Thể Ngô, Nguyễn Huy Nhu… đến nhà văn Tam Ích, đạo diễn Lê Dân, nhà văn Nguyễn Minh Trường, nhà thơ Trụ Vũ, Vĩnh Thao, Ngũ Xa Thơ, Sơn Chi… các nhạc sĩ, họa sĩ, nhiếp ảnh gia Nguyễn Hữu Ba, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đỗ Kim Bảng, Tôn Thất Đào, Phạm Đăng Trí, Nguyễn Khoa Lợi, Đoàn Văn Long, Phạm Bá Nguyên… Các công thương gia Phan Thiên Tường, Nguyễn Ngọc Bang, Lê Hữu Trí… gần như các danh gia vọng tộc ở Huế đều hưởng ứng phong trào hòa bình, thậm chí cả những người trong bộ máy tuyên truyền của Mỹ Diệm. Cụ Nguyễn Hữu Đính kể lại: cụ Hồ Đắc Định người phụ trách khâu kiểm duyệt ở nhà thông tin Trung Việt lúc bấy giờ đã viết thư đến tòa soạn hoan hô Ngày Mai.

Phong trào Hòa bình bị đàn áp đẫm máu. Ở Sài Gòn, Mỹ Diệm đã bắt giam toàn bộ 40 nhân sĩ, trí thức tham gia phong trào và đưa ra tòa xét xử. Ở Huế, giáo sư Tôn Thất Dương Kị, Võ Đình Cường, Cao Xuân Lữ, anh Lê Quang Vịnh, Hoàng Nguyên… lần lượt bị bắt, nhiều cơ sở cách mạng bị vỡ.

Tác động của phong trào Hòa Bình

Mặc dù phong trào Hòa Bình bị đàn áp đẫm máu nhưng tác động của nó đối với phong trào đô thị Huế cực kì to lớn, ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào thành thị miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trước hết, Huế là địa bàn của những nhân vật đầu não, là căn cứ địa của cái gọi là chính phủ quốc gia: Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Phong trào Hòa Bình gần như tập hợp toàn bộ tầng lớp trên thực sự là một đòn tấn công chính trị đẩy Mỹ Diệm từ thế chủ động sang thế bị động, buộc chúng phải phơi bày mặt nạ “thế giới tự do”, lộ nguyên hình là đám tay sai bán nước thâm độc và phản động. Mỹ Diệm không còn con đường nào khác là mở rộng nhà tù, trại cải huấn, phân loại, thanh lọc, bắt bớ những người yêu nước ngoảnh mặt với Diệm, đàn áp những người yêu nước.

Tiếp đến phong trào Hòa Bình đã khởi động tấn công vào chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, trang bị kiến thức để các tầng lớp nhân dân hiểu rõ chủ nghĩa thực dân mới. Trên tập văn Ngày Mai, Cao Xuân Lữ với bài viết Thời đại nguyên tử trong lời kết nêu rõ: “Đối với những kẻ luôn luôn dọa nạt hết bằng khí giới nguyên tử đến khí giới khinh khí, chúng ta có bổn phận cảnh cáo kẻ giết người bằng gươm sẽ chết bằng gươm, kẻ giết người bằng lửa sẽ chết bằng lửa”. Bác sĩ Lê Khắc Quyến trong bài viết Hướng đi của Y khoa nêu rõ: “Không lẽ trong lúc chúng ta cố gắng giành từng người ốm cùng ma bệnh, tìm phương làm cho con người bớt khốn khổ, bớt mang nặng đẻ đau, sống lâu và khỏe mạnh, chúng ta lại tha thứ những kẻ mang tâm gây chiến để giết hàng chục triệu người vô tội? Cụ Nguyễn Hữu Đính trong bài “Chiến tranh và Thịnh vượng Kinh tế” đã phân tích sâu sắc trong khoảng 30 năm 1914 - 1945 kinh tế Mỹ đã 2 lần thịnh vượng nhớ có chiến tranh, chiến tranh đã kéo kinh tế Mỹ ra 2 cơn khủng hoảng rồi đưa sản lượng kinh tế ấy lên một mức rất cao trong thời gian chiến tranh. Bài lựa chọn nhân tài chỉ rõ sự phụ thuộc của chính quyền Mỹ và các nhân vật trọng yếu trong giới doanh nghiệp, tài chính.

Anh chị em phong trào đô thị Huế gặp nhau sau năm 1975 tại Trường Đại Học Sư Phạm Huế


Và điều cực kì quan trọng của phong trào Hòa Bình ở Huế là ảnh hưởng của họ đối với phong trào đô thị miền Nam. Họ có mặt khắp nơi ở trường Quốc Học, Đồng Khánh, Nông Lâm, Kỹ Thuật, các trường Bồ Đề… Suốt quá trình chống Mỹ cứu nước họ luôn giữ vai trò ngọn cờ hiệu triệu đánh thức lòng yêu nước của tuổi trẻ, của nhân dân các thành thị với các hành động quyết liệt, có tác động sâu sắc đến cách mạng miền Nam. Đóng góp của họ rất to lớn. Điều này càng sáng tỏ khi nhiều nhân vật chủ chốt của phong trào đã lần lượt được Thành phố đưa vào quỹ đặt tên đường ở Huế.
 

Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ - Ảnh: gactholoc.net

Đó là giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, giáo sư trường Quốc Học, trường Marie Curie, Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Đại học Vạn Hạnh, là một học giả uyên thâm cả Tây học lẫn Nho học, là nhân vật chủ chốt của phong trào Hòa Bình ở Huế, bị chính quyền Mỹ Diệm bắt bớ nhiều lần; năm 1964, ông bí mật tham dự Đại hội lần thứ 2 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và được bầu làm Ủy viên Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Là người tham gia lãnh đạo phong trào dân tộc tự quyết Việt Nam, tháng 3/1965 giáo sư bị địch bắt cùng những người hoạt động trong phong trào ở Sài Gòn. Nhưng trước uy thế của phong trào và uy tín của giáo sư, địch không dám làm gì buộc phải trục xuất ra Bắc qua cầu Hiền Lương tạo nên một sự kiện chấn động độc nhất vô nhị trong cách mạng miền Nam. Năm 1968 giáo sư trở lại miền Nam được đề cử làm Tổng thư kí, Ủy ban Trung ương liên minh các Lực lượng dân tộc, dân chủ hòa bình Việt Nam.
 

Bác sĩ Lê Khắc Quyến - Ảnh: huemed-univ.edu.vn

Đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên khoa trưởng Đại học Y Khoa Huế, là người được gia đình Ngô Đình Diệm kính trọng và quý mến; chính Ngô Đình Diệm đã tặng cho bác sĩ 1 chiếc xe Mecedes. Ông là người chủ chốt của phong trào hòa bình. Việc chính quyền Ngô Đình Diệm cử giáo sư Trần Hữu Thế ra thay linh mục Cao Văn Luận làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, tại buổi lễ bàn giao, bác sĩ đã đứng lên phản ứng quyết liệt và tuyên bố từ chức. Hành động của bác sĩ kéo theo toàn bộ giáo sư Đại học Huế từ chức trong cuộc đấu tranh chống đàn áp tôn giáo năm 1963. Năm 1964 chống chế độ độc tài Nguyễn Khánh với hiến chương Vũng Tàu, bác sĩ đứng ra thành lập và là Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Cứu quốc. Hội đồng Nhân dân Cứu quốc đã tung một đòn tấn công chấn động thời bấy giờ, ra lệnh tập đoàn cần lao phải đến trình diện và tự thú trước hội đồng trong vòng nửa tháng từ 14/9 đến 30/9/1964.

Đó là kĩ sư Nguyễn Hữu Đính, một quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ Diệm, Giám đốc Nha Thủy lâm Trung Việt, Hiệu trưởng đầu tiên trường Nông Lâm súc Huế, tổng thanh tra Thủy lâm Việt Nam. Con đường tham chính mở ra thênh thang đối với ông nhưng ông đã làm điều ngược lại. Ông là nhân vật chủ chốt của phong trào Hòa Bình và tập văn Ngày Mai. Trong suốt quá trình chống Mỹ cứu nước, ông là cầu nối giữa cách mạng và các tầng lớp trên, luôn là người đỡ đầu cho phong trào đô thị Huế là Chủ tịch Ủy ban bảo trợ sinh viên Huế trong những năm 1970, 1971. Gia đình ông là gia đình cơ sở cách mạng, là địa bàn lõm và là nơi an toàn cho các đồng chí lãnh đạo thành phố như Hoàng Lanh, Phan Nam, Hoàng Kim Loan… mỗi khi đột nhập vào thành phố. Sau ngày giải phóng cho đến khi mất, ông là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông cũng là người sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Huế…

Điều đáng nói là các nhân vật trong phong trào Hòa Bình ở Huế phần lớn đều tham gia hoạt động cách mạng liên tục trong nội thành, gia đình họ đều là gia đình cơ sở cách mạng. Về cuối cuộc chiến họ đều là những nhân vật chủ chốt trong Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam.

L.V.L
(SH303/05-14)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!