LÊ VĂN LÂN
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.
Tranh bút sắt Bửu Chỉ
Sự kiện Mậu Thân ở Huế đã được trình bày, phân tích với nhiều nhãn quan khác nhau ở nhiều phía diễn ra ở nhiều hội thảo khoa học và vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng với việc làm chủ thành phố 26 ngày đêm, Huế đã đóng góp xuất sắc trong lịch sử chống Mỹ cứu nước và như một tờ báo nước ngoài đã viết lúc đó: “Hiện nay có một cái tên đang thu hút sự chú ý của toàn thế giới - đó là thành phố Huế - kinh đô cũ của nước Việt Nam xưa. Ngày nay, Huế đang đi vào lịch sử, các thành phố anh hùng như... Stalin-grat. Huế là một trang sử hiển hách trong cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Huế sẽ là một vừng dương trong lịch sử với những dấu vết anh hùng, bất tử của những chiến công hiện nay”.
PHONG TRÀO ĐÔ THỊ TRONG XUÂN 1968
Khi nói đến thắng lợi của cuộc tấn công nổi dậy mùa xuân năm 1968, mọi đánh giá đều nói nhiều đến chiến công quân sự và đề cập đến nổi dậy thường chưa được đầy đủ và chưa thực sự tương xứng. Nhưng chính sự nổi dậy của quần chúng, đưa phong trào đô thị lên cao trào đã tạo nên sự đột biến và tạo nên một chất lượng mới trong tình thế cách mạng, đó chính là sự khác biệt của Huế so với các đô thị trong cả nước trong chiến dịch xuân 1968. Chúng ta đều biết tham gia đánh Huế trong xuân 68 cả quân sự lẫn chính trị khoảng 3.000 đến 4.000 tay súng, lương thực thiếu thốn, đạn dược không đầy đủ và không có lực lượng dự bị. Trong lúc đó, Mỹ - Ngụy lực lượng gấp cả chục lần, trang bị đầy đủ hiện đại với máy bay, tàu chiến, xe tăng; hậu cần dồi dào... Hệ thống kềm kẹp dày đặc vòng trong vòng ngoài. Ngay trong tư tưởng của kẻ thù: Nếu cách mạng đánh vào Huế chỉ cần phản kích là bật ra ngay. Và rõ ràng tình hình các đô thị miền Nam trong Mậu Thân đều diễn ra như vậy.
Thật vậy, xét trên bình diện tương quan lực lượng chiếm Huế rất khó khăn, chiếm được rồi giữ Huế lại càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, cũng trên khía cạnh tương quan lực lượng, cùng cú đấm quân sự là sự nổi dậy của 25 vạn nhân dân thành phố, của phong trào đô thị thì ta áp đảo địch gấp nhiều lần. Do vậy, tiến công trong vài giờ cách mạng đã chiếm được Huế, cơ quan đầu não của địch bị tê liệt hoàn toàn, chính quyền và bộ máy kềm kẹp của địch từ tỉnh đến cơ sở bị giải tán, 36 cơ quan ngụy của tỉnh và miền Trung bị chiếm, bọn đầu não đều trốn chạy và ra hàng... Quá trình chiếm giữ thành phố 26 ngày đêm toàn bộ khâu hậu cần, tải thương, chăm sóc thương binh, chôn cất tử sĩ đều do người dân Huế đảm trách, lực lượng cách mạng lớn mạnh nhiều lần với sự hăng hái tham gia của thanh niên thành phố.
Nói đến thắng lợi Xuân 1968 ở Huế không thể không nói đến vấn đề đầu tiên là quá trình chuẩn bị. Phong trào đô thị là ngòi pháo xung kích. Có thể nói, sau khi bị đàn áp khốc liệt năm 1966, phong trào đô thị dần khôi phục với các cuộc đấu tranh chống bầu cử quốc hội lập hiến, đòi hòa bình dân chủ dân sinh, bài trừ văn hóa nô dịch... khuếch trương các chiến thắng của cách mạng ở đường 9, các cuộc tấn công ở Huế như đánh vào khách sạn Hương Giang, trung tâm huấn luyện nghĩa quân Long Thọ, vào quận Hữu Ngạn, vào Trại Lê Lợi, vào trụ sở xã Thủy Phú (phường Xuân Phú ngày nay)... gieo rắc hoang mang dao động, gây mất niềm tin trong bộ máy kềm kẹp của Mỹ Ngụy...
Chuẩn bị cho cuộc tổng công kích và khởi nghĩa ở Huế, các đồng chí Hoàng Lanh, Hoàng Kim Loan, Phan Nam cùng các đồng chí lãnh đạo Thành ủy Huế đột nhập vào Huế; các đồng chí Nguyễn Hường Thọ, Phan Trung Chính bám sát vùng ven Huế. Lực lượng nổi dậy của Huế gồm nhiều chùa chiền trong thành phố; nhiều cơ sở trong thành phố như nhà cụ Nguyễn Hữu Đính, bác sĩ Thân Trọng Phước, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thúc Tuân, Trần Thân Mỹ, nhà bác Lê Hữu Trí, cô Hoàng Thị An... đã trở thành nơi tập kết vũ khí, nơi ém quân áp sát các mục tiêu, nơi phân phối lực lượng hoa tiêu dẫn đường, nơi phát hiệu lệnh nổi dậy... Có thể nói hầu như toàn thành phố, phường xã nào cũng đều có những pháo đài như thế. Ngay trong các cơ quan của ngụy quyền như khách sạn Hương Giang, quận 3, nhà máy điện, ga Huế... cũng đều có “dân đô thị cài cắm”. Điều này nói lên vì sao ta đưa một lực lượng, khí tài quân sự lớn vào thành phố trong một thời gian dài mà vẫn bảo đảm được bí mật, bất ngờ, lúc hành quân thì không một đội hình nào bị phát hiện, cắt ngang. Các đòn tấn công đều nhằm vào chỗ hiểm, chiếm toàn bộ thành phố chỉ trong vài giờ làm địch hoang mang, dao động, bị động lúng túng trong một thời gian dài. Thành phố gần như nằm trong lòng bàn tay của cách mạng...
Và điều thể hiện khác biệt lớn nhất của Huế so với các thành thị miền Nam là liền sau giải phóng Huế, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt long trọng từ tỉnh đến cơ sở mà chủ chốt là các thành viên phong trào đô thị với các nhân sĩ, trí thức, tôn giáo, sinh viên học sinh có uy tín ở Huế. Chủ tịch UBND cách mạng của tỉnh là giáo sư Lê Văn Hảo, Phó chủ tịch là bà Nguyễn Đình Chi, nguyên Hiệu trưởng trường Đồng Khánh Huế; Chủ tịch UBND cách mạng quận Thành Nội là giáo sư Nguyễn Hữu Vấn, Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Huế, tham gia UBND cách mạng quận 1 có giáo sư Trần Bá Chữ, trường Trung học Kiểu mẫu; Chủ tịch UBND cách mạng khu phố 2 là anh Nguyễn Thiết, sinh viên Đại học Luật khoa Huế, Chủ tịch UBND cách mạng khu phố 6 là bác Phan Thiên Tường, chủ hiệu thuốc bắc Thiên Tường... UBND cách mạng các cấp trong một thời gian ngắn đã giải quyết một núi công việc đồ sộ: Tổ chức tiếp nhận ngụy quân ra trình diện, thành lập đoàn nghĩa binh, tập trung lực lượng ngụy quyền ở cơ quan cũ bảo quản tài liệu máy móc thiết bị. Truy bắt số ác ôn nợ máu không chịu ra đầu thú. Tổ chức cho thanh niên vào các đội công tác cùng nhân dân đào hầm hào trú ẩn; bổ sung vào các đội hình cách mạng, hình thành các trạm chăm sóc điều trị thương binh, di chuyển thương binh, chôn cất tử sĩ. Và có thể nói chính quyền cách mạng đảm trách toàn bộ khâu hậu cần trong suốt chiến dịch: phục vụ cơm nước cho các đơn vị chiến đấu, mở các kho gạo cứu đói cho nhân dân...
Một sự kiện độc đáo của cách mạng miền Nam là trong suốt 26 ngày đêm chiếm giữ Huế, lá cờ được treo ở Kỳ Đài là lá cờ của Liên minh các lực lượng dân chủ hòa bình, lá cờ là biểu tượng của phong trào đô thị. Cờ rộng 96m gồm hai băng xanh, giữa đỏ và ngôi sao vàng, cờ do chị Lê Thị Mai may (chị Mai là chị ruột của anh Lê Quang Vịnh). Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình thành phố ra đời sớm nhất gồm những nhân sĩ trí thức tôn giáo yêu nước có nhiều uy tín và tiêu biểu của Huế như Hòa thượng Thích Đôn Hậu, giáo sư Nguyễn Đóa (sau này là Phó chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), bà Nguyễn Đình Chi, giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Văn Hảo v.v. Việc hình thành liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình với sự tham gia của các nhân sĩ, trí thức, tôn giáo lớn của Huế mang theo bao tình cảm của nhân dân hướng về cách mạng, là cơ sở cho việc phát triển cơ sở nội thành, phong trào đô thị sau này. 26 ngày đêm treo cờ liên minh trên Kỳ Đài thể hiện uy thế nổi dậy của phong trào đô thị Huế.
ĐÔI ĐIỀU VỀ XUÂN 1968
Có thể nói ngoài những đánh giá nghiêm túc, khách quan khoa học về thắng lợi của cuộc tổng tấn công và nổi dậy của Mùa xuân 68 ở Huế, đó đây vẫn còn những xuyên tạc làm lu mờ thắng lợi của cuộc tổng tiến công nổi dậy, lấp lửng xóa mờ tội ác kẻ thù đối với nhân dân. Điều này, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp đâu đó, như trong truyện của Nhã Ca (Giải khăn sô cho Huế), hoặc trong Hồi ký của Liên Thành, nguyên Trưởng ty cảnh sát ngụy hồi đó (Biến động miền Trung) nhằm bôi nhọ những người tham gia kháng chiến, phong trào đô thị, bao che tội ác cho kẻ thù và ngay chính mình.
Trước hết, phản kích chiếm lại Huế, một sự thật không ai có thể phủ nhận được, trong suốt 26 ngày đêm Mỹ ngụy đã biến Huế, vùng ven Huế trở thành vùng oanh kích tự do. Hàng ngàn tấn bom pháo của Mỹ ngụy đã phá nát thành phố và vùng ven Huế thành bình địa. Thấy thành quách là ném bom, thấy nhà cửa là ném bom, thấy có người là ném bom... Trên 80% nhà cửa ở Huế đã bị phá hủy. Sự bắn phá vô tội vạ này đã gây bao chết chóc thương vong lên đầu người dân Huế, đây là tội ác lớn nhất mà ngay cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận được.
Khi cách mạng rút ra khỏi thành phố, cả thành phố chìm ngập trong màn đêm của khủng bố, nhiều người trong phong trào đô thị qua bàn tay đẫm máu của Liên Thành, đã bị chúng bắt và trả thù man rợ. Như trường hợp ba cha con ông Phan Thiên Tường, chủ tiệm thuốc Bắc Thiên Tường bị bắt và bắn ngay tại chỗ. Các nhà tù của Ngụy như trại tạm giam, Lao Thừa Phủ với việc bắt bớ hàng loạt, chật ních người, hầu như không có phường xã nào là không có người bị bắt. Hành động khát máu của Liên Thành thật sự tiêu biểu cho cuộc chiến phi nghĩa mà Mỹ Ngụy tiến hành. Cả thầy mình, bạn mình Liên Thành đều giết. Và cũng chính sự khát máu của Liên Thành đã đẩy những người yêu nước ở Huế không còn con đường nào khác là cầm súng lên rừng tham gia kháng chiến.
Phong trào đô thị Huế là đỉnh cao của phong trào đô thị miền Nam. Phong trào diễn ra trong sự kiện Xuân 1968 ở Huế đã mở ra một tình thế mới, một chất lượng mới của cách mạng miền Nam. Phong trào đô thị Sài Gòn đã được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang. Còn phong trào đô thị Huế thì sao?
L.V.L
(SH288/02-13)
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.