THANH TÙNG
Kinh đô Huế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bầu trời u ám của xã hội phong kiến Việt Nam lúc mãn chiều xế bóng đã phát ra tín hiệu của một vì sao NGUYỄN TẤT THÀNH.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc thuở hàn vi cùng vợ (bà Hoàng Thị Loan) và hai con Tất Đạt, Tất Thành trên đường vào Huế theo học ở Quốc Tử Giám (Cảnh trong phim "Tất Thành – Hồ Chí Minh")
Bộ phim miêu tả tuổi trẻ Nguyễn Tất Thành trong bối cảnh đất nước đang chìm đắm trong đêm dài nô lệ. Muôn dân sống trong đói khổ lầm than. Những ông vua yêu nước lần lượt bị đi đày. Giữa lúc này biết bao người đang cố tìm chiếc chìa khóa vàng để tự tay mình mở cánh cửa sắt của dân tộc đang bị giam cầm. Đó là những bậc sĩ phu với tấm lòng yêu nước, thương dân đầy nhiệt huyết nhưng đã hết sứ mệnh lịch sử. Có người thổi bùng lên ngọn lửa Cần Vương khi nhà vua đã từ bỏ ngai vàng điện ngọc ra đi. Có người tìm đến lòng nghĩa hiệp của người bạn đồng màu da, có người cầu mong lòng nhân từ bác ái của nền văn minh phương Tây qua bọn thực dân để mở mang dân trí, đợi thời.. Trên con đường đi tìm chiếc chìa khóa vàng ấy, họ lần lượt ngã xuống và chỉ để lại những tên tuổi "đẹp một thời".
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đó và trong mối liên hệ với truyền thống quá khứ với bạn bè, quần chúng lao khổ. Cảm phục trước những tấm lòng yêu nước, thương dân của các thế hệ ông, cha nhưng Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được vấn đề là phải đi tìm con đường khác. Vượt ra ngoài khuôn mẫu của người trí thức phong kiến, nhạy cảm, nắm bắt và xử sự theo kịp xu thế thời đại, phù hợp với quy luật lịch sử.
Bộ phim được tập trung cả chiều dài lẫn chiều sâu ở Huế. Nơi đây, tuổi trẻ Nguyễn Tất Thành đã trải 10 năm cay đắng, trong nhiều mối quan hệ gắn liền với nỗi đau mất nước. Nơi đây, từ thuở thiếu thời Tất Thành đã mang trên đôi vai của mình gánh nặng gia đình. Nơi hằn sâu trong ký ức Người những kỷ niệm không bao giờ mờ phai trong cuộc đời mà cho đến ngày từ biệt chúng ta đi về thế giới bên kia "hẳn trong đôi mắt của người còn nguyên vẹn một khoảng trời phương Nam" (thơ Thu Bồn).
Cuộc đời học sinh của Nguyễn Tất Thành cũng bắt đầu ở Huế. Có điều người học sinh "cá biệt" này thích học trường đời nhiều hơn và trong đời thường bình dị đã sớm bộc lộ những tâm tư, ý hướng khác thường. Đó là điều lý thú mà tác giả kịch bản văn học Sơn Tùng và đạo diễn Long Vân đã lựa chọn khai thác những chi tiết, sự kiện, tiêu biểu nhất trong hằng hà của cuộc đời thực nhân vật đưa lên màn ảnh để người xem dễ dàng phát hiện ra những Tín hiệu của một vì sao. Điều mà từ nhiều năm nay anh Nguyễn Đắc Xuân đã bỏ nhiều công sức để khẳng định Huế là nơi Nguyễn Tất Thành bắt đầu hình thành nhân cách và phát tín hiệu cho một vì sao sáng trong tác phẩm cùng tên sắp ra mắt bạn đọc...
Là nơi phát tín hiệu chứ chưa phải là ngôi sao, các nhà làm phim đã chú ý, khắc đậm những nét tính cách riêng của Nguyễn Tất Thành trong suốt cuộc đời học sinh ở Huế và trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước cứu dân. Từ Huế vào Phan Thiết, rồi Sài Gòn là sự phát triển thống nhất về tính cách và tư tưởng của Nguyễn Tất Thành - là tín hiệu của vì sao Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tỏa sáng ở PARIS và trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, của phong trào Cộng sản quốc tế, một danh nhân văn hóa thế giới và là một trong những người đã góp phần làm "thay đổi diện mạo trái đất" ở thế kỷ XX. Đó là chủ đề của bộ phim dài ba tập về Bác Hồ kính yêu. Phim dự kiến thực hiện từ nay đến năm 1995. Tập 1 mang tên TÍN HIỆU MỘT VÌ SAO hy vọng sẽ được xuất hiện trên màn ảnh vào đầu tháng 5-1990 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người.
Bản thân cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là một nguồn cảm hứng vô tận. Bên cạnh đó Người có cả một tuổi thơ gắn liền với xứ Huế thơ mộng, với sông Hương núi Ngự hùng vĩ, Hoàng thành rực rỡ vàng son, lăng tẩm tráng lệ, chùa chiền uy nghi yên tĩnh, phủ thờ trang nghiêm. Đến nay, thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế vẫn còn hội được nhiều yếu tố để dựng lại bối cảnh phim đầu thế kỷ. Đó là yếu tố rất cơ bản, đã kích thích các nghệ sĩ đam mê sáng tạo nghệ thuật, làm cho nhiều cảnh quan đã vượt dự liệu của đoàn làm phim. Ngoài những đại cảnh trong kịch bản như ngày đại thiết triều, ngày vua Hàm Nghi, vua Thành Thái đi đày và ngày biểu tình chống thuế sôi động thu hút từ 1000 đến 3000 quần chúng tham gia đã có những cảnh vừa phát triển thành cảnh lớn và cảnh nhỏ thành cảnh vừa - Bộ phim đang đứng trước "nguy cơ" phát triển về nội dung và chiều dài và càng làm cho các trường đoạn quay ở Phan Thiết, T.P.Hồ Chí Minh thêm sơ lược, tản mạn, mất cân đối.
![]() |
Triều thần Hoàng thân và nhân dân Huế tiễn đưa vua Thành Thái đi đày (Cảnh trong phim "Tất Thành – Hồ Chí Minh") |
Dựng lại cuộc đời của một bậc vĩ nhân, đạo diễn Long Vân đã bắt tay chuẩn bị cho công việc làm phim từ ba năm về trước. Anh tìm ra Nguyễn Tiến Hợi người giống Bác Hồ thời trẻ trên sàn tập vở "Đêm trắng" của đoàn kịch nói Quân khu 2. Quê ở xứ Nghệ Tĩnh, sinh trưởng ở Thủ đô, Tiến Hợi ngoài diện mạo anh có giọng nói rất giống giọng Bác. Vì vậy mà có rất nhiều thư yêu cầu Đài tiếng nói Việt Nam phát lại nhiều lần vở kịch "Đêm trắng" để mọi người được nghe "tiếng Bác". Vì vậy trong phim Tiến Hợi có thêm nhiệm vụ lồng tiếng Tất Thành. Nghệ sĩ Đức Chung (đoàn kịch thanh thiếu nhi Hà Nội), người có giọng nói giống Bác nhất, được chọn lồng tiếng cụ Nguyễn Sinh Sắc. Cũng ở đoàn kịch quân khu 2, cách đây 2 năm đạo diễn Long Vân phát hiện ra Thu Hà diễn viên trẻ đẹp và hồn nhiên đóng vai út Vân sau khi cô xuất hiện trên màn ảnh lần đầu tiên trong phim "Đề Thám". Bá Lộc, Lan Hương trong vai cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan được chọn trong quá trình làm phim "Người không mang họ"...
Mặc dầu đã có ý quyết định nhưng trước khi bắt tay vào làm phim khâu tuyển chọn diễn viên vẫn được tiến hành nghiêm túc, thận trọng. Hàng trăm diễn viên khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam được mời về Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thử vai. Khi thử vai được quay Camera để chiếu trong buổi họp báo để thăm dò dư luận và ý kiến cuối cùng là của Hội đồng nghệ thuật liên hiệp điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh - đơn vị sản xuất phim.
Tác giả kịch bản và các nhà làm phim sẽ gặp khó khăn là khó hấp dẫn người xem bằng cốt truyện. Vì cuộc đời của Bác thời niên thiếu hầu như tất cả mọi người đều đã biết. Quyết định thành công của bộ phim là ở chỗ phải dựng lại được bối cảnh lịch sử để cho nhân vật xuất hiện, bộc lộ tính cách, ở diện mạo và tài năng diễn xuất của diễn viên.
Qua kịch bản phân cảnh và những trường đoạn quay đã thực hiện ở Huế tin chắc rằng bộ phim sẽ đạt được giá trị nghệ thuật cao đủ sức hấp dẫn, xúc cảm người xem. Phim vừa có những đại cảnh với quy mô hoành tráng, dựng lại được một thời đau thương nhưng cũng rất oai hùng của dân tộc, vừa có nhiều trường đoạn có chiều sâu về tư tưởng, và tinh tế ở nghệ thuật biểu hiện.
Bộ phim lấy bối cảnh ở Huế, Phan Thiết, thành phố Hồ Chí Minh trong đó tập trung ở Huế hơn 1/3 cảnh quay. Trong quá trình đi chọn cảnh, đi đến đâu đoàn làm phim cũng được lãnh đạo các địa phương, các ngành và nhân dân hết lòng giúp đỡ và xem đó là tình cảm trách nhiệm của mình. Những hiện vật quý nhất từ các bảo tàng đặc biệt là bảo tàng cổ vật Huế đều được đưa ra sử dụng. Họa sĩ Như Giao, người có sở trường và khả năng tổ chức đại cảnh đã lặn lội đi khắp mọi miền và tiếp xúc với mọi giới để chuẩn bị đạo cụ, phục trang, phác thảo bối cảnh, trung thực với hiện thực lịch sử.
Ngoài tình cảm, trách nhiệm của Đảng bộ nhân dân Thừa Thiên - Huế, đoàn làm phim đã nhận được tấm lòng của địa phương khác, của bạn bè gần xa, trong và ngoài nước. Anh Nicôlas Coruet một phóng viên người Pháp đang làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh đã ra Huế đóng vai Khâm sứ Trung Kỳ tốn kém hàng triệu đồng, lại bị trễ ngày về vì trở ngại kỹ thuật trong quá trình quay vẫn vui vẻ, thoải mái. Các bạn ở lãnh sự quán Liên Xô tại Đà Nẵng phải "quá tam ba bận" vào ra, tham gia làm phim cũng không hề có một yêu cầu gì về đãi ngộ vật chất. Để có voi, ngựa trong cảnh quay ngày đại triều và cảnh vua Hàm Nghi đi đày tỉnh Quảng Trị đã đưa vào 6 con ngựa và cử đồng chí Nguyễn Quang Tám, ủy viên Thường vụ, Phó chủ tịch UBND huyện Hướng Hóa sang mượn con voi của các bạn Lào. Anh Tiêng Phết Thìn Sêpôn giám đốc xí nghiệp liên doanh khai thác lâm sản tỉnh Xa-văn-na-khẹt đã cho đoàn làm phim mượn một con voi kéo gỗ đã thuần phục mà không hề có đòi hỏi gì. Trong thư gửi cho Tỉnh ủy Quảng Trị anh viết:
"Để đóng góp cho công việc làm phim nhằm thể hiện tình cảm của chúng tôi đối với Hồ Chủ Tịch và với tỉnh Quảng Trị, chúng tôi xin đóng góp - góp chứ không bắt buộc đoàn làm phim phải thuê mướn theo giá trị ngày công hoặc hao mòn voi."
Rõ ràng, bộ phim truyện "Tất Thành- Hồ Chí Minh" không còn riêng trách nhiệm của đoàn làm phim mà đã trở thành tình cảm và trách nhiệm chung của cả nước, của bạn bè gần xa trên trái đất ngưỡng mộ và kính yêu Người. Trong đó con người và vùng đất Huế có quyền tự hào như đồng chí Hoàng Hà, Giám đốc nghệ thuật phim đã viết: "Cám ơn Huế đầu thế kỷ cưu mang Tất Thành, cuối thế kỷ lo cưu mang bộ phim truyện "Tất Thành - Hồ Chí Minh". (Hương Giang hoành tráng - báo Thừa Thiên- Huế số 21). Khán giả điện ảnh cả nước đặc biệt là khán giả Thừa Thiên - Huế đang hồi hộp chờ mong phim "TẤT THÀNH – HỒ CHÍ MINH" xuất hiện trên màn ảnh.
T.T
(TCSH40/01-1990)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.