HOÀNG HƯƠNG TRANG
Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.
Hai trong số những trang sách của Philipphê Bỉnh
Trước đó nữa, phổ biến vẫn chỉ là chữ Hán, chữ Nôm, tiếp đến là chữ Pháp rồi mới đến Q.N. Các cụ xưa, chẳng mấy ai đưa ngôn ngữ bình dân đại chúng vào tác phẩm, vì thế ngày nay, những nhà ngôn ngữ học, hay nghiên cứu về văn hóa dân gian, gặp không ít khó khăn. Đa số sách chữ Nôm là khá gần ta nhất, thì cũng toàn văn vần, thơ, phũ, biền ngẫu, thoát thai từ Hán văn, văn Hán và Nôm đều quá sơ lược, đơn gọn, không phản ảnh được đúng ngôn ngữ bình dân, mà qua thời gian, dòng ngôn ngữ ấy đã biến thiên rất nhiều.
Thuở ấy, chưa phải là xưa lắm, đến cái chữ Nôm còn bị dè bỉu là “mách qué”, đã học là phải học chữ Hán mới đúng “cửa Khổng sân Trình”, huống hồ cái chữ Q.N, bị coi là thứ chữ “Bò ngang như cua” của Tây Dương đem lại. Do đó, chữ Q.N đã được khai sinh và hoàn chỉnhkhá lâu, từ thời Trịnh Nguyễn, nhưng chỉ dùng cho các vị Cố Đạo, thương nhân nước ngoài, mặc dầu đã có tự vị hẳn hoi, mà vẫn còn xa lạ với người đi học. Nề nếp và ổn định thì chỉ trên dưới trăm năm thôi, giai đoạn đầu cũng chỉ học thuần chữ Pháp, mãi mới chuyển Q.N được. Nhưng từ khi phổ biến bộ chữ Q.N là ta gặp ngay mọi sự dễ dàng, trong khi đó, những nước dùng chữ tượng hình như Tàu, Nhật, Hàn, và các nước theo chữ Á Rập rất khó hội nhập với các nước có bộ chữ cái La Tinh. Ta rất may mắn, tuy rằng mấy nghìn năm lệ thuộc Phương Bắc, thế mà khi có chữ Q.N, ta nhanh chóng, dễ dàng vượt thoát ra khỏi cái vòng đai khổ ải của thứ chữ tượng hình như vẽ bùa ấy.
Trước giờ các nhà nghiên cứu hầu như đồng ý với lập luận rằng, chữ Q.N được khai sinh bởi cha đẻ A. De Rhodes, Béhaine hoặc một vài vị cố đạo đồng thời, và cũng chỉ nghĩ rằng, chỉ có các vị cố đạo nước ngoài như thế thôi, thật là thiếu sót và oan uổng! Thật ra ta đã có một vị Thầy Cả thuần chất, sinh năm 1759 đến 17 tuổi vào tu ở nhà Dòng, rồi đi chu du nhiều nước, ông viết nhiều sách, soạn và san định nhiều bộ tự điển đầu tiên cho người Việt dùng. Bằng chữ Q.N chính hiệu, mà ngày nay đọc nó vẫn còn trôi chảy, vẫn hiểu như ngôn ngữ ta dùng hiện nay. Ông viết bằng thứ văn xuôi như nói chuyện, nói sao viết vậy. Chuyện ông viết vừa nhật ký, ghi chép biên niên, hoạt động của Dòng Chúa, của nhà thờ, của Giáo Hội trong và ngoài nước, sinh hoạt ngày thường của xã hội ta, xã hội Tây Phương, các nước ông đã đến, các nghề nghiệp lúc bấy giờ, cách ăn uống, ăn mặc, tế lễ, tang ma, ông quan sát rồi vẽ ra những vật dụng ta chưa làm được, như cái bàn in để in tranh tượng thờ, cái bàn nghiền bột thô sơ để lấy bột làm bánh thánh, cái máy dệt cổ sơ của tây phương, ông ghi chép, vẽ lại tỉ mỉ mọi sinhhoạt xã hội, so sánh cách sống văn minh hơn, có khoa học hơn, vệ sinh hơn của xã hội tây phương với cách sống còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, thiếu khoa học của dân ta. Từ cách nhà thoáng mát, sơn quét đẹp mắt, giường nệm trắng tinh, phòng ngủ phòng ăn tươm tất, bữa ăn nhiều chất đạm, nuôi con sạch sẽ không mớm cơm nhai như các bà mẹ ta thời ấy... tất cả được viết lại bằng một thứ chữ Q.N, văn nói bình dân, đầy đủ, lưu loát, dễ hiểu.
Toàn bộ sách của ông, có cuốn đã in, có cuốn viết tay, kể cả những bộ tự vị mà ta biết của các vị cố đạo, những bộ được đánh giá là “Tối cổ”.
Ông, một người Việt thuần chất, viết cho người Việt đọc, chúng ta không ai biết ông, hầu như chưa ai nhắc tới ông bao giờ, ông đã bị lãng quên!
May thay, một số sách của ông còn lưu giữ kỹ càng ở thư viện Tòa thánh Vatican, được cầm trên tay những trang sách viết nắn nót của ông, thật bồi hồi xúc động, trên 200 năm trước đã có một con người Việt Nam như thế. Ông là Thầy Cả Philipphê Bỉnh, ông không để lại cho chúng ta một hình vẽ, một pho tượng nào cả, nhưng chân dung ông thì rất rõ nét. Ông là người Việt Nam viết văn Q.N đầu tiên, khác hẳn với tính cách những nhà truyền giáo nước ngoài đồng thời với ông. Tiếc là ông đã không ghi họ gì, chỉ ghi tên Thánh trước tên thật, ông người xứ Hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngãi An, thôn Địa Linh, sinh năm 1759, 17 tuổi vào Dòng tu, rồi đi chu du nhiều nước theo các Dòng thánh, ông đã sống ở nhiều nước tây phương và Á Châu, ông không nhắc gì đến quãng đời thơ ấu, cha mẹ, anh em, do đâu mà ông đi tu, chỉ nói sơ lược đến quê quán. Ông đi tu và học ở trường Kẻ Vĩnh lúc 17 tuổi (1775), đến 1793 ông được thụ phong linh mục, cuộc đời học vấn và tu tập gần ngót 20 năm ông ghi đầy đủ những ngày ông được thụ chức trong giáo hội. Có lẽ ông là người có học vấn và học đạo xuất sắc hơn người, nên vừa thụ phong linhmục xong, nhận vật kỷ niệm, khao vọng anh em nhà dòng, là được trao phó ngay chức vụ đảm nhiệm rất quan trọng, chức giữ việc trong giáo hội, tức quản lý tài sản tiền bạc của giáo hội, công việc ấy rất nặng nề, trách nhiệm, phải rất xuất sắc, uy tín mới được giao. Ông tự ví: “Thầy cả giữ việc Vít vồ thì chẳng khác gì như quan Tọa triều” (Vít vồ tức quản lý, ngày nay không còn thấy trong chữ Q.N nữa). Với chức vụ ấy, ông có cơ hội đi lại nhiều lần giữa Việt Nam - Macao - Goa (một xứ ở Ấn Độ) rồi sang Trung Hoa (ông ghi là nước Đại Minh) và nhiều nước khác, để lo việc đạo, uy tín ông ngày càng tăng.
Lúc bấy giờ, phát sinh ra việc tranh chấp cực kỳ nặng nề giữa hai phe truyền giáo là dòng Đa Minh và dòng Tên, có áp lực chính trị quốc tế xen vào, tòa thánh La Mã lại dường như nghiêng về phía dòng Đa Minh mà bỏ rơi dòng Tên, ông đã cùng một phái đoàn thầy giảng Việt Nam sang tận Bồ Đào Nha yết kiến nhà vua, nhờ can thiệp với Tòa Thánh, nhưng không được giúp đỡ mà còn bị lưu vong ở Lisbone hơn 30 năm rồi chết ở đấy. Trong hơn 30 năm này ông dùng để trước tác, biên soạn tự vị, sao chép sách vở, viết nhật ký với ý đồ gởi về quê hương toàn bộ tác phẩm của mình, ông viết công phu, tỉ mỉ, không có ý làm văn chương, nhưng là biên soạn, ghi chép những việc thật, người thật ở xứ người, tả đầy đủ, rõ ràng xã hội Tây phương bấy giờ, và so sánh với xã hội ta, mong muôn lúc trở về sẽ truyền bá, cải tiến cho bằng người. Tiếc thay, ông đã không làm được vì đã chết ở đất nước người sau hơn 30 năm lưu vong vì sự phân chia hai dòng truyền giáo mà ông đã bất lực không kết hợp lại được.
Những sách của ông, theo di chúc, được gởi về quê hương song khi ấy dòng Đa Minh và dòng Tên còn đang kháng nhau kịch liệt, đốt cả nhà thờ của nhau, bắt giáo sĩ của nhau nhốt cả vào chuồng trâu bò, kể cả việc đổ máu, việc chia rẽ diễn ra khắp các nước có giáo hội của hai dòng. Riêng nước ta cũng nhằm vào thời các vua Nguyễn bài đạo Ki Tô ráo riết, nên những sách ông gởi về không biết lưu lạc phương nào? Chút may mắn còn lại là thư viện Tòa thánh Vatican còn lưu của ông một số ít, không tới một phần hai mươi số sách của ông (so với bản kê khai sách trong thư viện riêng ông, chính tay ông viết), may thay, trong đó còn lại cuốn quan trọng hơn cả, cuốn viết tay, nhan đề “Sách sổ sang chép các việc” là cuốn có cái nhìn tổng quan, bao quát, của sự nghiệp trước tác và cả thời đại ông sống. Cũng từ cuốn này ta có thể so sánh chữ Q.N buổi bình minh ấy với hiện tại, cách nhau ngoài 200 năm đã có những biến thiên gì?
Xuyên suốt cuộc đời ông đã sống, làm việc, đọc ông dù còn lại không nhiều, chân dung ông như hiển hiện trước mắt, một vị thầy cả trầm tư, đạo mạo, thông thái, cần cù nhẫn nại.
Chỉ riêng một cuốn sách ít ỏi mà nay ta còn lại trong tay, dày trên 600 trang, do chính ông viết tay nắn nót cẩn thận, nếu có được tất cả sách của ông đã viết thì chúng ta đã có thể có cả một kho báu văn học Q.N buổi đầu đồ sộ đến nhường nào?
Sự nghiệp của Philipphê Bỉnh rất lớn lao, ông là một tài năng đa dạng, về ngôn ngữ học, xã hội học, nhà văn và họa sĩ. Riêng trên lĩnh vực từ điển, ta sẽ tìm thấy những gút mắc về những bộ từ điển được gọi là “tối cổ” mà lâu nay coi như đã thất lạc không còn tìm ra manh mối, thì nay những mấu chốt ấy có thể thấy được trong sách của Philipphê Bỉnh, những cuốn từ điển “Tôi tối cổ”, cổ hơn cả những cuốn của A.de Rhodes in năm 1651, của Pigneau de Béhaine đã bị cháy ởCà Mau đầu thế kỷ 19, hay cuốn của Tarberd tu bổ lại cuốn bị cháy. Hai cuốn “Tôi tối cổ” là hai cuốn đã được nhắc đến trong bài tựa của cuốn tự vị cổ nhất in 1651 của de Rhodes, đó là hai cuốn của Gaspas D’amaral, và Antonio Barbosa mà tưởng chừng không bao giờ còn cơ hội thấy bóng dáng. Việc vô cùng quan trọng này, trong phạm vi một bài viết ngắn không thể nói hết được, phải chờ những nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, của ta sẽ làm việc đầy đủ hơn, để đưa ra ánh sáng, vì đó là những bộ sách quý giá hiếm hoi của chữ Q.N trong buổi đầu và là cái mốc của lịch sử văn học Quốc Ngữ. Có thể nói Philipphê Bỉnh là nhà văn viết bằng Q.N hoàn chỉnh nhất và đầu tiên của nước ta. Ông biết nhiều thứ tiếng, nhất là Pháp và La Tinh, nhưng không viết tiếng nước ngoài mà người chỉ chăm chú viết tiếng Việt cho người Việt đọc, lòng yêu dân tộc của ông rất cao. Ở cách chúng ta ngoài 200 năm đã có một tấm lòng, một khối óc, một tài năng như thế, đã đóng góp trí tuệ mình vào gia tài văn hóa dân tộc, thật đáng cho chúng ta tôn vinh, ngưỡng mộ và tri ân.
Cũng từ cuốn sách này mà ta có thể so sánh chữ Quốc Ngữ buổi đầu với hiện tại, cách nhau trên 200 năm mà đã có những biến thiên gì? Ví dụ:
Nay ta viết và đọc: Đức Chúa Trời, Cũng như, Cùng nhau, Quản lý, Hạ Hoàng, Huyện, Thôn, Dòng Chúa, Thầy Dòng, Song le, Trước khi,...
Thì lúc bấy giờ, Philipphê Bỉnh viết: Đức Chúa Blời, Cŭ~ như, Cŭ` nhau, Vít vồ, Hạ Hàǒù, Huện, Tôn, Dàõ Chúa, Thầy Dàõ, Saǒ le, Trc' khi...
Ông lại còn dùng rất nhiều chữ viết tắt như: Rg` (rằng) Ng` (người) Chg’ (chẳng)... riêng chữ Vít Vồ (tổng quản, quản lý) cho đến nay không còn dấu vết trong chữ viết và ngôn ngữ của ta, chỉ phỏng đoán theo ý của toàn câu thì nó có nghĩa là một chức vụ quan trọng như tổng quản, quản lý, trông coi tiền bạc, tài sản của giáo hội, chứ không thể tìm đâu ra chữ “Vít vồ” tương đương với chữ gì hiện nay.
Cũng cần cảm ơn người đã có công khám phá ra kho tàng sách vở của Philipphê Bỉnh là linh mục Thanh Lãng, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, Chủ tịch Trung tâm Văn Bút VN trước 1975, ông đã bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc chụp lại phim toàn bộ bộ sách của Thầy Cả Bỉnh còn lưu lại ở thư viện Tòa thánh Vatican, mục “Tài liệu Bắc Kỳ”, mang số Borghese Tonchino 3, kho tàng ấy đã chìm vào lãng quên hơn 200 năm, chúng ta không thể lại để tiếp tục lãng quên, sẽ có tội với tiền nhân và nền văn hiến nước nhà.
Bài viết ngắn này, chúng tôi tha thiết mong liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, truy tầm, những tác phẩm vô giá về văn học Quốc Ngữ này, hiện còn lưu giữ ở thư viện Tòa thánh Vatican, nước Ý.
H.H.T
(SDB8/3-13)
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).