HOÀNG HƯƠNG TRANG
Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.
Hai trong số những trang sách của Philipphê Bỉnh
Trước đó nữa, phổ biến vẫn chỉ là chữ Hán, chữ Nôm, tiếp đến là chữ Pháp rồi mới đến Q.N. Các cụ xưa, chẳng mấy ai đưa ngôn ngữ bình dân đại chúng vào tác phẩm, vì thế ngày nay, những nhà ngôn ngữ học, hay nghiên cứu về văn hóa dân gian, gặp không ít khó khăn. Đa số sách chữ Nôm là khá gần ta nhất, thì cũng toàn văn vần, thơ, phũ, biền ngẫu, thoát thai từ Hán văn, văn Hán và Nôm đều quá sơ lược, đơn gọn, không phản ảnh được đúng ngôn ngữ bình dân, mà qua thời gian, dòng ngôn ngữ ấy đã biến thiên rất nhiều.
Thuở ấy, chưa phải là xưa lắm, đến cái chữ Nôm còn bị dè bỉu là “mách qué”, đã học là phải học chữ Hán mới đúng “cửa Khổng sân Trình”, huống hồ cái chữ Q.N, bị coi là thứ chữ “Bò ngang như cua” của Tây Dương đem lại. Do đó, chữ Q.N đã được khai sinh và hoàn chỉnhkhá lâu, từ thời Trịnh Nguyễn, nhưng chỉ dùng cho các vị Cố Đạo, thương nhân nước ngoài, mặc dầu đã có tự vị hẳn hoi, mà vẫn còn xa lạ với người đi học. Nề nếp và ổn định thì chỉ trên dưới trăm năm thôi, giai đoạn đầu cũng chỉ học thuần chữ Pháp, mãi mới chuyển Q.N được. Nhưng từ khi phổ biến bộ chữ Q.N là ta gặp ngay mọi sự dễ dàng, trong khi đó, những nước dùng chữ tượng hình như Tàu, Nhật, Hàn, và các nước theo chữ Á Rập rất khó hội nhập với các nước có bộ chữ cái La Tinh. Ta rất may mắn, tuy rằng mấy nghìn năm lệ thuộc Phương Bắc, thế mà khi có chữ Q.N, ta nhanh chóng, dễ dàng vượt thoát ra khỏi cái vòng đai khổ ải của thứ chữ tượng hình như vẽ bùa ấy.
Trước giờ các nhà nghiên cứu hầu như đồng ý với lập luận rằng, chữ Q.N được khai sinh bởi cha đẻ A. De Rhodes, Béhaine hoặc một vài vị cố đạo đồng thời, và cũng chỉ nghĩ rằng, chỉ có các vị cố đạo nước ngoài như thế thôi, thật là thiếu sót và oan uổng! Thật ra ta đã có một vị Thầy Cả thuần chất, sinh năm 1759 đến 17 tuổi vào tu ở nhà Dòng, rồi đi chu du nhiều nước, ông viết nhiều sách, soạn và san định nhiều bộ tự điển đầu tiên cho người Việt dùng. Bằng chữ Q.N chính hiệu, mà ngày nay đọc nó vẫn còn trôi chảy, vẫn hiểu như ngôn ngữ ta dùng hiện nay. Ông viết bằng thứ văn xuôi như nói chuyện, nói sao viết vậy. Chuyện ông viết vừa nhật ký, ghi chép biên niên, hoạt động của Dòng Chúa, của nhà thờ, của Giáo Hội trong và ngoài nước, sinh hoạt ngày thường của xã hội ta, xã hội Tây Phương, các nước ông đã đến, các nghề nghiệp lúc bấy giờ, cách ăn uống, ăn mặc, tế lễ, tang ma, ông quan sát rồi vẽ ra những vật dụng ta chưa làm được, như cái bàn in để in tranh tượng thờ, cái bàn nghiền bột thô sơ để lấy bột làm bánh thánh, cái máy dệt cổ sơ của tây phương, ông ghi chép, vẽ lại tỉ mỉ mọi sinhhoạt xã hội, so sánh cách sống văn minh hơn, có khoa học hơn, vệ sinh hơn của xã hội tây phương với cách sống còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, thiếu khoa học của dân ta. Từ cách nhà thoáng mát, sơn quét đẹp mắt, giường nệm trắng tinh, phòng ngủ phòng ăn tươm tất, bữa ăn nhiều chất đạm, nuôi con sạch sẽ không mớm cơm nhai như các bà mẹ ta thời ấy... tất cả được viết lại bằng một thứ chữ Q.N, văn nói bình dân, đầy đủ, lưu loát, dễ hiểu.
Toàn bộ sách của ông, có cuốn đã in, có cuốn viết tay, kể cả những bộ tự vị mà ta biết của các vị cố đạo, những bộ được đánh giá là “Tối cổ”.
Ông, một người Việt thuần chất, viết cho người Việt đọc, chúng ta không ai biết ông, hầu như chưa ai nhắc tới ông bao giờ, ông đã bị lãng quên!
May thay, một số sách của ông còn lưu giữ kỹ càng ở thư viện Tòa thánh Vatican, được cầm trên tay những trang sách viết nắn nót của ông, thật bồi hồi xúc động, trên 200 năm trước đã có một con người Việt Nam như thế. Ông là Thầy Cả Philipphê Bỉnh, ông không để lại cho chúng ta một hình vẽ, một pho tượng nào cả, nhưng chân dung ông thì rất rõ nét. Ông là người Việt Nam viết văn Q.N đầu tiên, khác hẳn với tính cách những nhà truyền giáo nước ngoài đồng thời với ông. Tiếc là ông đã không ghi họ gì, chỉ ghi tên Thánh trước tên thật, ông người xứ Hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngãi An, thôn Địa Linh, sinh năm 1759, 17 tuổi vào Dòng tu, rồi đi chu du nhiều nước theo các Dòng thánh, ông đã sống ở nhiều nước tây phương và Á Châu, ông không nhắc gì đến quãng đời thơ ấu, cha mẹ, anh em, do đâu mà ông đi tu, chỉ nói sơ lược đến quê quán. Ông đi tu và học ở trường Kẻ Vĩnh lúc 17 tuổi (1775), đến 1793 ông được thụ phong linh mục, cuộc đời học vấn và tu tập gần ngót 20 năm ông ghi đầy đủ những ngày ông được thụ chức trong giáo hội. Có lẽ ông là người có học vấn và học đạo xuất sắc hơn người, nên vừa thụ phong linhmục xong, nhận vật kỷ niệm, khao vọng anh em nhà dòng, là được trao phó ngay chức vụ đảm nhiệm rất quan trọng, chức giữ việc trong giáo hội, tức quản lý tài sản tiền bạc của giáo hội, công việc ấy rất nặng nề, trách nhiệm, phải rất xuất sắc, uy tín mới được giao. Ông tự ví: “Thầy cả giữ việc Vít vồ thì chẳng khác gì như quan Tọa triều” (Vít vồ tức quản lý, ngày nay không còn thấy trong chữ Q.N nữa). Với chức vụ ấy, ông có cơ hội đi lại nhiều lần giữa Việt Nam - Macao - Goa (một xứ ở Ấn Độ) rồi sang Trung Hoa (ông ghi là nước Đại Minh) và nhiều nước khác, để lo việc đạo, uy tín ông ngày càng tăng.
Lúc bấy giờ, phát sinh ra việc tranh chấp cực kỳ nặng nề giữa hai phe truyền giáo là dòng Đa Minh và dòng Tên, có áp lực chính trị quốc tế xen vào, tòa thánh La Mã lại dường như nghiêng về phía dòng Đa Minh mà bỏ rơi dòng Tên, ông đã cùng một phái đoàn thầy giảng Việt Nam sang tận Bồ Đào Nha yết kiến nhà vua, nhờ can thiệp với Tòa Thánh, nhưng không được giúp đỡ mà còn bị lưu vong ở Lisbone hơn 30 năm rồi chết ở đấy. Trong hơn 30 năm này ông dùng để trước tác, biên soạn tự vị, sao chép sách vở, viết nhật ký với ý đồ gởi về quê hương toàn bộ tác phẩm của mình, ông viết công phu, tỉ mỉ, không có ý làm văn chương, nhưng là biên soạn, ghi chép những việc thật, người thật ở xứ người, tả đầy đủ, rõ ràng xã hội Tây phương bấy giờ, và so sánh với xã hội ta, mong muôn lúc trở về sẽ truyền bá, cải tiến cho bằng người. Tiếc thay, ông đã không làm được vì đã chết ở đất nước người sau hơn 30 năm lưu vong vì sự phân chia hai dòng truyền giáo mà ông đã bất lực không kết hợp lại được.
Những sách của ông, theo di chúc, được gởi về quê hương song khi ấy dòng Đa Minh và dòng Tên còn đang kháng nhau kịch liệt, đốt cả nhà thờ của nhau, bắt giáo sĩ của nhau nhốt cả vào chuồng trâu bò, kể cả việc đổ máu, việc chia rẽ diễn ra khắp các nước có giáo hội của hai dòng. Riêng nước ta cũng nhằm vào thời các vua Nguyễn bài đạo Ki Tô ráo riết, nên những sách ông gởi về không biết lưu lạc phương nào? Chút may mắn còn lại là thư viện Tòa thánh Vatican còn lưu của ông một số ít, không tới một phần hai mươi số sách của ông (so với bản kê khai sách trong thư viện riêng ông, chính tay ông viết), may thay, trong đó còn lại cuốn quan trọng hơn cả, cuốn viết tay, nhan đề “Sách sổ sang chép các việc” là cuốn có cái nhìn tổng quan, bao quát, của sự nghiệp trước tác và cả thời đại ông sống. Cũng từ cuốn này ta có thể so sánh chữ Q.N buổi bình minh ấy với hiện tại, cách nhau ngoài 200 năm đã có những biến thiên gì?
Xuyên suốt cuộc đời ông đã sống, làm việc, đọc ông dù còn lại không nhiều, chân dung ông như hiển hiện trước mắt, một vị thầy cả trầm tư, đạo mạo, thông thái, cần cù nhẫn nại.
Chỉ riêng một cuốn sách ít ỏi mà nay ta còn lại trong tay, dày trên 600 trang, do chính ông viết tay nắn nót cẩn thận, nếu có được tất cả sách của ông đã viết thì chúng ta đã có thể có cả một kho báu văn học Q.N buổi đầu đồ sộ đến nhường nào?
Sự nghiệp của Philipphê Bỉnh rất lớn lao, ông là một tài năng đa dạng, về ngôn ngữ học, xã hội học, nhà văn và họa sĩ. Riêng trên lĩnh vực từ điển, ta sẽ tìm thấy những gút mắc về những bộ từ điển được gọi là “tối cổ” mà lâu nay coi như đã thất lạc không còn tìm ra manh mối, thì nay những mấu chốt ấy có thể thấy được trong sách của Philipphê Bỉnh, những cuốn từ điển “Tôi tối cổ”, cổ hơn cả những cuốn của A.de Rhodes in năm 1651, của Pigneau de Béhaine đã bị cháy ởCà Mau đầu thế kỷ 19, hay cuốn của Tarberd tu bổ lại cuốn bị cháy. Hai cuốn “Tôi tối cổ” là hai cuốn đã được nhắc đến trong bài tựa của cuốn tự vị cổ nhất in 1651 của de Rhodes, đó là hai cuốn của Gaspas D’amaral, và Antonio Barbosa mà tưởng chừng không bao giờ còn cơ hội thấy bóng dáng. Việc vô cùng quan trọng này, trong phạm vi một bài viết ngắn không thể nói hết được, phải chờ những nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, của ta sẽ làm việc đầy đủ hơn, để đưa ra ánh sáng, vì đó là những bộ sách quý giá hiếm hoi của chữ Q.N trong buổi đầu và là cái mốc của lịch sử văn học Quốc Ngữ. Có thể nói Philipphê Bỉnh là nhà văn viết bằng Q.N hoàn chỉnh nhất và đầu tiên của nước ta. Ông biết nhiều thứ tiếng, nhất là Pháp và La Tinh, nhưng không viết tiếng nước ngoài mà người chỉ chăm chú viết tiếng Việt cho người Việt đọc, lòng yêu dân tộc của ông rất cao. Ở cách chúng ta ngoài 200 năm đã có một tấm lòng, một khối óc, một tài năng như thế, đã đóng góp trí tuệ mình vào gia tài văn hóa dân tộc, thật đáng cho chúng ta tôn vinh, ngưỡng mộ và tri ân.
Cũng từ cuốn sách này mà ta có thể so sánh chữ Quốc Ngữ buổi đầu với hiện tại, cách nhau trên 200 năm mà đã có những biến thiên gì? Ví dụ:
Nay ta viết và đọc: Đức Chúa Trời, Cũng như, Cùng nhau, Quản lý, Hạ Hoàng, Huyện, Thôn, Dòng Chúa, Thầy Dòng, Song le, Trước khi,...
Thì lúc bấy giờ, Philipphê Bỉnh viết: Đức Chúa Blời, Cŭ~ như, Cŭ` nhau, Vít vồ, Hạ Hàǒù, Huện, Tôn, Dàõ Chúa, Thầy Dàõ, Saǒ le, Trc' khi...
Ông lại còn dùng rất nhiều chữ viết tắt như: Rg` (rằng) Ng` (người) Chg’ (chẳng)... riêng chữ Vít Vồ (tổng quản, quản lý) cho đến nay không còn dấu vết trong chữ viết và ngôn ngữ của ta, chỉ phỏng đoán theo ý của toàn câu thì nó có nghĩa là một chức vụ quan trọng như tổng quản, quản lý, trông coi tiền bạc, tài sản của giáo hội, chứ không thể tìm đâu ra chữ “Vít vồ” tương đương với chữ gì hiện nay.
Cũng cần cảm ơn người đã có công khám phá ra kho tàng sách vở của Philipphê Bỉnh là linh mục Thanh Lãng, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, Chủ tịch Trung tâm Văn Bút VN trước 1975, ông đã bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc chụp lại phim toàn bộ bộ sách của Thầy Cả Bỉnh còn lưu lại ở thư viện Tòa thánh Vatican, mục “Tài liệu Bắc Kỳ”, mang số Borghese Tonchino 3, kho tàng ấy đã chìm vào lãng quên hơn 200 năm, chúng ta không thể lại để tiếp tục lãng quên, sẽ có tội với tiền nhân và nền văn hiến nước nhà.
Bài viết ngắn này, chúng tôi tha thiết mong liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, truy tầm, những tác phẩm vô giá về văn học Quốc Ngữ này, hiện còn lưu giữ ở thư viện Tòa thánh Vatican, nước Ý.
H.H.T
(SDB8/3-13)
ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.
BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.
MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.
HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập trong hòa ca Một nốt trầm xao xuyến (Mùa xuân nho nhỏ)
Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).
HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.