Quan lại Huế xưa - Ảnh: internet
Chúng ta thử nghe một người địa vị hơi thấp kém một chút, “hầu chuyện” (1) một ông hoàng: “Tớ nghe đức ông se, nên đem dâng một cân đường phèn để đức ông xơi với nước trà buổi sáng”. Phải gọi ông hoàng là ngài, đức ông hay tôn ông và tự xưng mình là “tớ”. Còn con đức ông thì gọi bằng “mệ”. Đức ông chỉ có se chứ không bao giờ đau, chỉ có xơi chứ không ăn, và đức ông cũng không ngủ, ngài chỉ ngơi hay giấc. Cho nên có chữ “cơm xơi”, “cơm thời”, tức là thứ cơm của ông hoàng bà chúa, của các cụ các quan. Còn vua thì ngự thiện, chứ không xơi không thời. Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa tai nghe Ông hoàng không ăn thì vua cũng không chết. Vua chỉ có băng hay thăng hà. Khi ngài thăng hà rồi thì không bỏ vào hòm mà bỏ vào tử cung để đưa lên an táng tại tôn lăng, nói một cách văn hoa là ninh lăng. Nơi chôn ông hoàng không dùng chữ mộ mà dân chúng thì mồ mả. Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm. Bây giờ không còn vua chúa nữa lối dùng chữ trở nên tự do. Những cái mả xây cất bằng ngói gạch, hơi đồ sộ một chút nhiều người gọi bừa là lăng. Ngoài cái lối nói năng có tôn ty trật tự dân Huế thường hay dùng chữ. - Tui đã biết trước, đa ngôn thì đa quá (2), nói lắm rồi răng cũng sinh chuyện cho mà coi! - Hai vợ chồng nớ cũng lạ, không khi mô nghĩ đến chuyện tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn (3), hễ hết gạo là xách rá đi mượn hàng xóm. - Tui nghĩ thằng hai Bụi cũng gan thiệt, đơn thương độc mã (4) mà dám tới chọc tổ ong vò vẽ mà chơi! Có khi người ta dùng luôn cả một câu dài! Hắn với tui cùng ở chung một xóm, nhưng hắn khinh tui nghèo, có khi mô hắn thèm đặt chưn vô nhà tui mô. Cơ chi tui mà giàu có, thì dẫu ở trên năm non tí tè hắn cũng bò tới. - Bác ơi! Hơi mô mà trách móc cho mệt! Thói đời là rứa rồi: Bần cư trung thị vô nhơn vấn, Phú tại sơn lâm hữu khách tầm! (5) Thỉnh thoảng người ta lại dùng điển: Tui tưởng mời hắn ăn cho vui, chớ kéo cả họ Tạ như rứa thì biết lấy chi mà dọn! (Trong tuồng Sơn hậu, sau khi Tạ Ôn Đinh lên cầm quyền, con cháu trong họ Tạ đều được cất nhắc lên chức này chức khác). Ngoài lối nói chữ nho đúng theo nghĩa của nó, người Huế còn nói một cách lắt léo mà ngay cả người Trung Hoa cũng không sao hiểu nổi. Chê một cô nào già người ta bảo là bách diệp. Bách là trăm, diệp là lá, trăm lá tức là tra lắm. Người Huế thường dùng chữ tra hơn là chữ già: ông tra thì mụ cũng tra, tra đời không trót thế, chữ tới hơn chữ đến, chữ đặng hơn chữ được và chữ tui chứ không dùng chữ tôi v.v… Thấy một cô gái không chồng mà chửa, người ta cười bảo nhau: “Con Huế nết na như rứa, ai ngờ lại trung hưng. Thằng cha mô đó cắc cớ thiệt!” Trung hưng là một chữ của lịch sử: nhà Trần Trung Hưng, nhà Lê Trung Hưng tức là đương suy sụp nửa chừng lại dấy lên. Nhưng đây là cái bụng nổi lên. Cũng cùng một nghĩa với câu: Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra, mẹ ơi! con chẳng ở nhà được đâu. Ở nhà làng bắt mất trâu… (Bắt trâu là một lối phạt vạ mà gia đình cô gái chửa hoang phải nạp cho xã). Về lối nói lắt léo, bóng gió thì đó cũng là một sở trường của dân Huế. Cười mấy ông dượng tò te với cháu vợ hay bà gia thương yêu rể quá trớn, người ta nói: Đi đâu cho ngái cho xa, ở đây với dượng bằng ba lấy chồng. Hay: Mụ gia yêu rể mỗi điều mỗi yêu. Muốn cho được trang nhã, văn hoa, ngoài lối dùng chữ nho, dân Huế hay đem vào trong câu nói những thành ngữ, tục ngữ hay ca dao. - Nói chơ, đèn nhà ai sáng nhà nấy, mụ đã hay ho chi hơn ai mà đòi xăm lo vô chuyện người khác. - Mợ tưởng tui cần mợ lắm à? Không mợ chợ cũng đông, mợ đi vô Quảng ai trông mợ về. - Tui không ngờ mợ tệ như rứa! Cậu ăn của chú mạ tui đến lút mày lút mặt mà hễ tui nói động đến cậu là cậu réo tên tục chú mạ tui ra mà chưởi. Rõ đồ phản Trụ đầu Châu, ăn cơm của Phật đút (đốt) râu thầy chùa. - Chuyện có dính chi hắn mô, rứa mà khi không ách giữa đàng mà mang vô cổ, có rứa mới trợn trắng con mắt ra. - Chao ui! Hay ho chi mô có! Dột từ trên nóc dột xuống! Phủ ăn đường phủ, huyện ăn đường huyện, chỉ có thằng dân là khổ. - Tui đã nói với hắn nhiều lần, buôn Ngô buôn Tàu, không giàu bằng buôn hà tiện, nếu biết khéo tém dặt một chút thì làm chi đến nổi phải mang công mắc nợ! Như ta đã thấy ở trên cùng với cái lối dùng chữ nho một cách lắt léo, như trung hưng, bách diệp v.v… thì khi dùng tiếng Việt cũng có cái lối lắt léo như vậy nhất là mượn những tiếng đồng âm: - Bác say hung rồi, để cháu dắt bác về cho rồi! - Say chi mà say! Say sưa sáo bổ à? Tao mà say thì đứa mô tỉnh? (Say là những cái cọc, khi giăng sáo bắt cá những ngư phủ thường đóng để giữ sáo, mà hễ say đóng sưa thì sáo phải ngã). - Thiệt là vô can mà xé vải ra, can đi can lại, công đà nên công! Can là may để nối hai khổ vải với nhau cho dài ra hoặc may cho vải khỏi xơ. Dùng chữ can vải theo nghĩa can là liên can. Ý nói việc không dính líu gì đến mình, rây vào làm gì cho sinh chuyện. Từ chỗ dùng chữ lắt léo đến chỗ nói lái chỉ cách nhau có một bước. Chồng bảo vợ: “Nhà thì nhiều con nít, mình mua thứ cá long hội ni về làm chi không biết”. Cá long hội dùng để nói những loại cá vụn vặt nhiều xương vì “long hội” là lôi họng. Không đáng vai anh mà tự xưng là anh, không đáng vai chú mà tự xưng là chú thì người ta nói mỉa: “Anh chi mà anh! Anh quẻ a?” (Anh quẻ là ẻ quanh). Hoặc: “Chú chi? Chú trong họ” (chú trong họ là chó trong hụ - hụ tức là cái hũ). Lại có câu đố cũng dùng lối nói lái: Thợ rèn, thợ bạc ngồi co, Kẻ kềm, người búa biết thò vào đâu. Câu trên dùng để đố cây me đất. Me đất là mất đe. Một khi đã bị mất hòn đe thì thợ rèn, thợ bạc đều phải ngồi co tức là khoanh tay không làm gì được. Vì là một bài phiếm luận nên tôi không bàn kỹ và cũng không đưa vào nhiều ví dụ, nhưng với đôi nét chấm phá về tiếng Huế này tôi muốn gợi ý các bạn, nhất là bạn trẻ, nên tìm hiểu sâu thêm tiếng nói của cha anh xưa để chọn lấy những điều tinh túy đặng giữ gìn bản sắc ngôn ngữ của quê hương. (1/5&6-83) ----------- 1. Kẻ nhỏ không có quyền nói chuyện với người lớn, chỉ được phép “hầu” chuyện mà thôi. 2. Đa ngôn đa quá: nói nhiều lỗi lầm nhiều. 3. Chứa lúa phòng đói, chứa áo phòng lạnh. 4. Một mình một ngựa một giáo. 5. Nghèo ngay giữa chợ không người hỏi, giàu tại rừng sâu có khách tìm. |
Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.
ĐỖ XUÂN CẨM
Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.
KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.
KIMO
Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.
LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.
MAI KHẮC ỨNG
Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.
LÊ QUANG THÁI
Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tùy bút
Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.
PHẠM THÁI ANH THƯ
Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.
ĐỖ XUÂN CẨM
1. Đôi điều tản mạn về Liễu
Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.
TRƯỜNG PHƯỚC
Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.
LƯU THỦY
KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)
LÊ VĂN LÂN
Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.
THANH TÙNG
Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.
TRẦN VĂN DŨNG
Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.
DƯƠNG ĐÌNH CHÂU – TRẦN HOÀNG CẨM LAI
Danh lam thắng cảnh, nơi cảnh đẹp có chùa nổi tiếng, khái niệm này càng rõ hơn ở Huế.