Đó là những gì tôi cảm nhận được ngay từ những trang đầu cuốn tự truyện Sau một cuộc đời của nhà thơ, nhà nghệ sĩ biểu diễn Bảo Cường, một thân phận ba chìm bảy nổi nay tù mai tội ở cả hai chế độ của cậu bé hồn nhiên ở một vùng quê nghèo, thứ nghèo rớt mồng tơi đặc trưng của những miền bán sơn địa trên dải đất miền Trung cằn cỗi nắng gió. Một nhân thân nhỏ nhoi, như hàng triệu đứa trẻ miền quê khác bị trầm luân trong dòng chảy đầy biến động của những năm tháng chiến tranh. Đứa bé ấy cũng mang thật nhiều ước mơ, dù chỉ là những mơ ước bình thường được ăn, được học, được thả tiếng sáo trúc những trưa hè nằm vắt vẻo trên lưng trâu bay cao hơn, xa hơn. Nhưng rồi những mơ ước bình thường ấy cũng bị chiến tranh tước đoạt phải rời xa quê hương nghèo khó lại luôn gồng mình gánh chịu bom đạn, lang thang tìm về Sài Gòn, nơi bom đạn, tang tóc chưa với tới kịp, sống những ngày tháng ăn bụi ngủ đường, làm thuê làm mướn vất vả trăm điều. Vậy nhưng vẫn không chạy thoát khỏi cái bóng đen đầy hệ luỵ của chiến tranh nên chỉ còn đường sống duy nhất là đăng lính… Để rồi phải ngậm ngùi thú nhận “…sau sự kiện 30/4/1975. Sài Gòn thức dậy với một bộ mặt khác/ Người chiến thắng thì vui mừng/ Người chiến bại thì đau đớn nhục nhã lo lắng/ Người lao động thì tự lách mình giữa hai lớp người có tâm trạng đó, cố làm sao để kiếm đủ ngày hai bữa/ Riêng tôi thực lòng không biết mình thuộc lớp nào trong xã hội đó…” Sự cô đơn, hụt hẫng của một con người không biết mình là ai, phải đứng ở chỗ nào quả thật là nỗi thống khổ vô tận. Không riêng chi một mình Bảo Cường cảm thấy, mà nó là hoàn cảnh, tâm trạng chung của đa phần người miền Nam trong những ngày đầu đất nước không còn ly loạn… “Cha tôi là Việt minh nằm vùng… bị bắt, bị tù đày/ anh tôi thì đi cách mạng…” Còn bản thân tác giả lại là lính Việt Nam Cọng Hoà… dù anh tự ám thị mình không thuộc một loại nào thì cũng vẫn phải gánh chịu chung thứ số phận nghiệt ngã của hệ quả cuộc chiến kỳ lạ nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Lại phải ăn cơm tù, phải nằm chuồng cọp như một thời trốn lính, đào ngũ ở chế độ cũ để phản đối việc cầm súng bắn giết anh em mình… Tự thuật cuộc đời mình bằng văn bản có thể nói không phải là chuyện dễ, nhiều người cũng từng viết hay đi thuê viết nhưng chẳng mấy ai thành công. Với Bảo Cường, có lẽ chính nhờ sự không cố công trau chuốt, làm đẹp câu chữ khiến người đọc có thể cảm thụ được hết cái tinh thần anh muốn chuyển tải, không bị cái bóng bẩy chữ nghĩa vô tình khoả lấp hết sự chân xác cần thiết của một cuộc đời tự kể, điều mà đa số những tập hồi ký thường vấp phải. Tập tự truyện Sau một cuộc đời được diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ rất đỗi đời thường, thường đến độ có lẽ một vài người khó tính sẽ cảm thấy khó chịu khi bắt gặp những từ lóng láy khá thô tháp cộng với sự luẩn quẩn, lúng túng trong lối hành văn, như bản thân anh vẫn tự khẳng định mình không phải là một cây bút văn xuôi chuyên nghiệp “… mình là người nghệ sĩ biễu diễn, mà với người nghệ sĩ khi đứng trên sân khấu quan trọng nhất là chuyển tải được hết cảm xúc của mình đến khán giả…” Vậy là anh viết, viết theo quán tính của một người muốn nhanh chóng xoá đi món nợ cần phải trả cho chính cuộc đời đầy truân chuyên của mình. Và phải chăng với lối viết, lối suy nghĩ này anh đã thành công, nên khi đọc từ đầu đến cuối tập Sau một cuộc đời tôi và có thể là bạn… dường như không mang cảm giác là đang đọc một cuốn sách, mà đang ngồi đối diện, đang lắng nghe nghệ sĩ Bảo Cường kể chuyện bằng chất giọng mộc mạc như tiếng sáo tre của đứa bé thanh thản, hồn nhiên nằm vắt vẻo trên lưng trâu thời nào. Huế 04-2010 N.Q (256/6-10) |
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.